Thực trạng những tranh chấp liên quan đến nhãn hiệu

Thực trạng những tranh chấp liên quan đến nhãn hiệu hiện nay tại Việt Nam như thế nào? Hãy tham khảo ngay bài viết dưới đây của Luật Quốc Bảo để hiểu rõ hơn nhé. Mời Quý bạn cùng tham khảo. 

Nếu bạn cần hỗ trợ pháp lý hay bất kỳ thắc mắc có mong muốn được giải đáp nhanh chóng, vui lòng liên hệ với Luật Quốc Bảo qua số hotline/zalo: 076 338 7788. Chúng tôi sẽ giải đáp mọi thắc mắc cho quý khách miễn phí. 

Tranh chấp nhãn hiệu hiện nay tại Việt Nam 

Tranh chấp nhãn hiệu là điều không thể tránh khỏi trong thời buổi kinh tế đang phát triển, các công ty mọc lên như nấm sau mưa. Việc xử lý, khiếu nại các quyền liên quan đến xung đột sở hữu trí tuệ nhãn hiệu cần đúng đắn và tuân thủ pháp luật để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu hợp pháp nhãn hiệu đó.

Cơ sở pháp lý liên quan đến sở hữu trí tuệ nhãn hiệu:

– Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009;

– Luật tố tụng dân sự 2015;

– Luật Khiếu nại 2011;

– Luật Tố cáo 2011;

– Luật Cạnh tranh 2014;

– Thông tư 01/2007/TT-BKHCN 2007 của Bộ Khoa học và Công nghệ;

– Các điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên.

Thực trạng những tranh chấp liên quan đến nhãn hiệu
Thực trạng những tranh chấp liên quan đến nhãn hiệu

Nhãn hiệu là gì?

Theo quy định tại Khoản 16 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi bổ sung 2009, 2019 (Luật Sở hữu trí tuệ) thì nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau. Trong đó các các loại nhãn hiệu như sau:

Nhãn hiệu tập thể là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các thành viên của tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó với hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của tổ chức đó.

Nhãn hiệu chứng nhận là nhãn hiệu mà chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng trên hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân đó để chứng nhận các đặc tính về xuất xứ, nguyên liệu, vật liệu, cách thức sản xuất hàng hóa, cách thức cung cấp dịch vụ, chất lượng, độ chính xác, độ an toàn hoặc các đặc tính khác của hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu.

Nhãn hiệu liên kết là các nhãn hiệu do cùng một chủ thể đăng ký, trùng hoặc tương tự nhau dùng cho sản phẩm, dịch vụ cùng loại hoặc tương tự nhau hoặc có liên quan với nhau.

Tranh chấp nhãn hiệu là gì?

Tranh chấp nhãn hiệu được hiểu là những mâu thuẫn, bất đồng, xung đột về quyền và lợi ích giữa hai hoặc nhiều bên liên quan đến một hoặc nhiều nhãn hiệu đã đăng ký mà các bên cho rằng nhãn hiệu thuộc quyền sở hữu của mình và việc sử dụng nhãn hiệu của bên kia đã ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ

Hành vi nào được coi là tranh chấp nhãn hiệu độc quyền?

Khoản 1 Điều 129 Luật Sở hữu trí tuệ quy định những hành vi sau đây bị coi là vi phạm bản quyền nhãn hiệu:

  1. Sử dụng nhãn hiệu, hình ảnh, ký hiệu tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu đã đăng ký bảo hộ nhãn hiệu.
  2. Sử dụng nhãn hiệu có tên phiên âm trùng hoặc gần giống với nhãn hiệu đã được đăng ký bảo hộ nhãn hiệu độc quyền
  3. Một số dấu hiệu khác liên quan đến mục đích gây nhầm lẫn với nhãn hiệu nổi tiếng phát sinh trong các trường hợp liên quan đến quyền sở hữu nhãn hiệu

Có bao nhiêu loại tranh chấp nhãn hiệu?

  1. Tranh chấp giữa cá nhân với cá nhân về quốc tịch Việt Nam.
  2. Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản.
  3. Tranh chấp về hợp đồng dân sự.
  4. Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ
  5. Tranh chấp về thừa kế tài sản.
  6. Tranh chấp về việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
  7. Tranh chấp về quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật về đất đai.
  8. Tranh chấp liên quan đến hoạt động nghiệp vụ báo chí theo quy định của pháp luật.
  9. Tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu.
  10. Tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
  11. Tranh chấp về kết quả đấu giá tài sản, thanh toán chi phí đăng ký mua tài sản đấu giá theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
  12. Các tranh chấp dân sự khác theo quy định của pháp luật. ”

Các phương pháp giải quyết tranh chấp nhãn hiệu

– Giải quyết tranh chấp nhãn hiệu bằng phương thức hòa giải, thương lượng: Khi bị xâm phạm quyền và lợi ích đối với nhãn hiệu đã đăng ký của mình, bên xâm phạm có quyền yêu cầu bên xâm phạm chấm dứt hiệu lực. chấm dứt hành vi vi phạm và bồi thường thiệt hại do vi phạm gây ra.

– Giải quyết tranh chấp nhãn hiệu bằng cách khởi kiện ra Tòa án khi hai bên không thương lượng được giải quyết thì bên xâm phạm có quyền khởi kiện bên xâm phạm ra Tòa án theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Một số tài liệu cần chuẩn bị cho vụ kiện. Bạn có thể nhờ luật sư giải quyết tranh chấp và tư vấn về việc khởi kiện

+ Bản chính văn bằng bảo hộ nhãn hiệu hoặc bản sao có công chứng hoặc xác nhận của cơ quan đã cấp văn bằng bảo hộ.

Bằng chứng để chứng minh rằng một hành vi vi phạm đã xảy ra.

+ Bản sao thông báo của bên bị vi phạm cho bên vi phạm, trong đó ấn định thời hạn hợp lý để bên này dừng hành vi vi phạm và bằng chứng để chứng minh các bên này không dừng hành vi. hành vi phạm tội của mình.

+ Chứng cứ chứng minh sự cần thiết của việc yêu cầu áp dụng biện pháp ngăn chặn, bảo đảm xử phạt trong trường hợp bên bị vi phạm đồng thời yêu cầu áp dụng biện pháp này.

Thực trạng những tranh chấp liên quan đến nhãn hiệu
Thực trạng những tranh chấp liên quan đến nhãn hiệu

Thực trạng giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ

Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng diễn ra rất phổ biến. Năm 2020, lực lượng chức năng đã xử phạt hơn 1460 vụ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.

Trong đó, xử lý hành chính khoảng 1.300 vụ, tổng số tiền xử phạt trên 25 tỷ đồng.

Theo báo cáo từ Chương trình hợp tác phòng, chống xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ (Chương trình 168), đã khởi tố, điều tra, xét xử khoảng 158 vụ với hơn 260 bị can.

Trên thực tế, việc giải quyết tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ hiện nay chủ yếu thông qua thương lượng.

Theo một kết quả nghiên cứu của Đoàn Luật sư Hà Nội năm 2015, số doanh nghiệp lựa chọn hình thức thương lượng để giải quyết tranh chấp chiếm 57,83%.

Hình thức giải quyết tranh chấp này tuy đáp ứng được nhu cầu trước mắt của các bên tranh chấp nhưng lại chưa được khung pháp lý nào quy định, do đó gây khó khăn cho các cơ quan nhà nước trong việc tiếp nhận, quản lý và xử lý các hành vi vi phạm sở hữu trí tuệ.

Trong khi đó, hòa giải thương mại và trọng tài thương mại mặc dù mang lại cho các bên tranh chấp nhiều thuận lợi về thời gian, hiệu quả và chi phí giải quyết nhưng số lượng tổ chức, cá nhân tiếp cận với các hình thức này còn hạn chế.

Không có nhiều trường hợp sở hữu trí tuệ được giải quyết thông qua hòa giải thương mại và trọng tài thương mại ở Việt Nam.

Bức tranh trọng tài thương mại ở Việt Nam vẫn chưa thực sự khởi sắc khi phương thức này mới chỉ giải quyết được khoảng 11% tổng số tranh chấp thương mại. Số vụ việc VIAC thụ lý trong năm 2011 là 83 vụ, còn rất khiêm tốn so với 188 vụ do Trung tâm Trọng tài Quốc tế Singapore (SIAC) thụ lý…

Tương tự, các vụ việc xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ được xử lý tại tòa án cũng chiếm số lượng không đáng kể. Những con số này phần nào phản ánh thực tiễn giải quyết các tranh chấp liên quan đến kinh doanh, thương mại nói chung và sở hữu trí tuệ nói riêng ở Việt Nam.

Có thể thấy, xuất phát từ bản chất của tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ chuyển giao công nghệ, việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp phù hợp của các chủ thể cũng chịu nhiều tác động dựa trên những thuận lợi và khó khăn. nhược điểm của từng phương pháp.

Đặc biệt:

Đàm phán giữa các bên

Thương lượng là hình thức giải quyết tranh chấp mà thông qua đó các bên tranh chấp cùng nhau thảo luận, tự giải quyết, giải quyết những bất đồng phát sinh nhằm loại bỏ tranh chấp mà không cần sự hỗ trợ của bên thứ ba.

Với ưu điểm thuận tiện, đơn giản, linh hoạt, hiệu quả và chi phí thấp, thương lượng là hình thức được đa số các bên lựa chọn để giải quyết tranh chấp.

Tuy nhiên, đây là hình thức phát huy tính tự nguyện của các bên tranh chấp và không có tính chất ép buộc.

Cuộc đàm phán có thành công hay không phụ thuộc vào thiện chí và thái độ của các bên tham gia. Ngoài ra, kết quả của thương lượng còn phụ thuộc vào sự tự nguyện của các bên có nghĩa vụ thực hiện, không bắt buộc phải thực hiện.

Do đó, trên thực tế dễ xảy ra tình trạng các bên không thỏa thuận, thương lượng được với nhau và phải tìm hình thức giải quyết khác với sự tham gia của bên khác.

Hòa giải giữa các bên do cơ quan, tổ chức, cá nhân theo thỏa thuận của các bên lựa chọn làm hòa giải viên.

Tranh chấp chỉ có thể được giải quyết bằng hòa giải thương mại nếu các bên đồng ý hòa giải. Tương tự như thương lượng, hòa giải là một hình thức giải quyết tranh chấp linh hoạt với thủ tục đơn giản, giúp các bên tiết kiệm thời gian và chi phí.

Việc giải quyết tranh chấp dựa trên nghiên cứu và kết quả của bên thứ ba là hòa giải viên thương mại có đủ năng lực và kinh nghiệm theo quy định của pháp luật cũng giúp đảm bảo tính khách quan và khả thi của kết quả. kết quả hòa giải.

Trên thực tế, số lượng doanh nghiệp lựa chọn hình thức hòa giải cũng như số lượng trung tâm hòa giải được thành lập có xu hướng ngày càng tăng.

Đặc biệt, kể từ khi Nghị định 22/2017/NĐ-CP được ban hành, những hạn chế trong hoạt động hòa giải thương mại đã cơ bản được khắc phục.

Trước đây, kết quả hòa giải thành của các hòa giải viên thương mại không có giá trị ràng buộc, nó chỉ là cơ sở để các bên tranh chấp căn cứ vào thực hiện phương án hòa giải.

Tuy nhiên, văn bản về kết quả hòa giải thành hiện nay theo Nghị định 22/2017 / NĐ-CP được xem xét công nhận là phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Cụ thể, Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định một chương riêng về thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án.

Theo đó, kết quả hòa giải của hòa giải viên sẽ được Tòa án xem xét, quyết định công nhận kết quả đó.

Vì vậy, khi lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp này, các bên sẽ yên tâm về tính khả thi của phương án giải quyết tranh chấp.

Ngoài ra, hình thức hòa giải thương mại còn giúp các bên tranh chấp bảo mật thông tin, vì hòa giải viên có nghĩa vụ “Bảo vệ bí mật thông tin về vụ tranh chấp mà mình tham gia hòa giải, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận bằng văn bản hoặc theo quy định của pháp luật ”(điểm c khoản 2 Điều 9 Nghị định 22/2017/NĐ-CP).

Giải quyết tại Trọng tài

Tương tự như hòa giải, tranh chấp giữa các bên chỉ có thể được giải quyết bằng trọng tài nếu các bên có thỏa thuận trọng tài. Giải quyết tranh chấp thương mại nói chung và tranh chấp sở hữu trí tuệ nói riêng bằng trọng tài thương mại đang trở thành xu hướng.

Ở Việt Nam hiện có khoảng 22 trung tâm trọng tài, tập trung chủ yếu ở hai thành phố lớn là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh.

Theo thống kê của Sở Tư pháp TP. Hồ Chí Minh, từ năm 2016 đến nay, các trung tâm trọng tài thương mại trên địa bàn thành phố đã tiếp nhận và giải quyết hơn 10.000 vụ việc. Sở dĩ nhiều cá nhân, tổ chức lựa chọn hình thức này là do thủ tục tố tụng trọng tài đơn giản và linh hoạt hơn rất nhiều so với thủ tục tại tòa án.

Đặc biệt, các phán quyết của trọng tài thường có độ chính xác cao, khách quan và mang tính chất “chung thẩm”.

Điều này có nghĩa là: Tranh chấp của các chủ thể sau khi đã được giải quyết xong sẽ không được cơ quan xét xử nào khác xem xét (trừ trường hợp hủy phán quyết trọng tài theo quy định của pháp luật). Do đó sẽ nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp.

Tuy nhiên, cũng chính vì tính chung thẩm của phán quyết trọng tài mà trên thực tế, có nhiều trường hợp kéo dài thời gian giải quyết tranh chấp, gây tốn kém và mất thời gian cho các bên tranh chấp. Để huỷ phán quyết trọng tài, một trong các bên tranh chấp phải gửi đơn yêu cầu Toà án huỷ phán quyết trọng tài.

Thủ tục xem xét căn cứ hủy phán quyết trọng tài của Tòa án phải được thực hiện theo trình tự, thủ tục và thời hạn do Pháp luật quy định để đảm bảo khách quan, công bằng.

Nhìn chung, việc thi hành phán quyết trọng tài không phải lúc nào cũng thuận lợi, trong khi thủ tục hủy phán quyết trọng tài có phần phức tạp. Đây là hạn chế của hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại.

Giải quyết tại Tòa án

Với vai trò là cơ quan nhà nước có trách nhiệm giải quyết các vụ việc liên quan đến xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của cá nhân, tổ chức, việc giải quyết tranh chấp tại Tòa án không chỉ giúp các chủ thể đưa ra các giải pháp mang tính cưỡng chế cao mà còn giúp chủ doanh nghiệp nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật.

Tuy nhiên, thủ tục giải quyết tranh chấp tại Tòa án hiện nay gây nhiều khó khăn cho các chủ thể.

Thứ nhất, nguyên tắc xét xử công khai của Tòa án khiến các đối tượng e ngại, vì không được đảm bảo bí mật thông tin.

Thứ hai, thời gian giải quyết tranh chấp kéo dài và chi phí cao cho các chủ thể.

Theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án kinh doanh – thương mại là 2 tháng kể từ ngày Tòa án thụ lý vụ án.

Đối với sự phức tạp của các vụ việc liên quan đến sở hữu trí tuệ, thời gian giải quyết có thể kéo dài hơn. Chi phí giải quyết tranh chấp tại Tòa án cao hơn nhiều so với trọng tài thương mại.

Thứ ba, về vấn đề xác định thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, trên thực tế khó xác định chính xác mức độ thiệt hại, bởi những thiệt hại về tinh thần như mất danh dự, nhân phẩm, uy tín, danh tiếng.

Vì vậy, khi giải quyết các vấn đề này, Tòa án gặp rất nhiều khó khăn.

Các vụ án tranh chấp nhãn hiệu nổi tiếng nhất ở Việt Nam

Tranh chấp về bản quyền tác giả đối với truyện tranh “Thần đồng đất Việt”

Năm 2001, họa sĩ Lê Linh bắt đầu làm việc tại Công ty Phan Thị và được giao thực hiện bộ truyện tranh TĐĐV. Tranh chấp quyền tác giả xảy ra khi đến tập 78, Lê Linh chấm dứt cộng tác với Phan Thị nhưng sau đó Phan Thị vẫn thuê họa sĩ làm tiếp và xuất bản từ tập 79 trở đi mà không có sự đồng ý của Lê Linh.

Năm 2007, Lê Linh bắt đầu khởi kiện vụ án xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ Công ty Phan Thị và bà Phan Thị Mỹ Hạnh; được TAND Q.1 ra quyết định thụ lý, tuy nhiên sau đó vụ việc được chuyển lên TAND TP.HCM.

Năm 2008, Lê Linh nhiều lần thay đổi yêu cầu khởi kiện, rồi cuối cùng rút đơn tại TAND TP.HCM và sau đó chuyển đơn khởi kiện trở lại TAND Q.1.

Năm 2017, Lê Linh yêu cầu tòa án trưng cầu giám định của Trung tâm giám định quyền tác giả.

Từ 18.5 – 11.10.2018, TAND Q.1 triệu tập 4 lần nhưng không đủ mặt hai bên.

Ngày 28.12.2018, TAND Q.1 đưa vụ án ra xét xử nhưng hoãn vì bị đơn vắng mặt.

Ngày 24.1.2019, phiên tòa sơ thẩm diễn ra; ngày 18.2, TAND Q.1 tuyên án sơ thẩm.

Ngày 16.7.2019, TAND TP.HCM mở phiên phúc thẩm theo kháng cáo của bị đơn; sáng 3.9, TAND TP.HCM tuyên y án sơ thẩm.

Vụ án tranh chấp bản quyền vở diễn Thuở ấy xứ Đoài

Vụ vụ án xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ này kéo dài gần hai năm, liên quan vở diễn dựng thực cảnh về văn hóa xưa ở vùng Bắc Bộ có tên Ngày xưa (còn gọi Thuở ấy xứ Đoài). Theo hợp đồng, Tuần Châu Hà Nội trả hơn 7 tỷ đồng để DS dựng nội dung, kịch bản, thiết kế kỹ thuật… Do hai bên mâu thuẫn, đạo diễn Việt Tú đăng ký quyền tác giả với Ngày xưa và DS đăng ký quyền sở hữu tác phẩm.

Tuần Châu Hà Nội sau đó khởi kiện, đòi DS chuyển giao quyền sở hữu tác phẩm và bồi thường hơn 6 tỷ đồng chi phí thuê bên thứ ba dựng tác phẩm khác, thuê luật sư. Phía DS cũng phản tố, đề nghị tòa chấp nhận tác phẩm mà Tuần Châu Hà Nội thuê công ty khác dựng có tên Tinh hoa Bắc Bộ là tác phẩm phái sinh của Ngày xưa. DS yêu cầu Tuần Châu Hà Nội bồi thường thiệt hại.

Tại bản án sơ thẩm tuyên tháng 3, TAND Hà Nội xác định quyền sở hữu vở diễn thuộc về Tuần Châu Hà Nội còn quyền tác giả duy nhất thuộc về đạo diễn Việt Tú. Tuần Châu Hà Nội phải trả cho DS hơn 600 triệu đồng do Tinh hoa Bắc Bộ là tác phẩm phái sinh của Ngày xưa.

Các bên cùng kháng cáo. Ở giai đoạn phúc thẩm, ông Nam muốn tham gia với tư cách người có quyền, nghĩa vụ liên quan chứ không phải nhân chứng.

Phiên phúc thẩm ngày 18/11/2019, TAND Cấp cao tại Hà Nội cho rằng có một số tình tiết cần phải xác minh, thu thập thêm chứng cứ nên dừng xét xử.

Sau khi dừng phiên xử phúc thẩm ngày 18/11/2019 để thu thập chứng cứ, Công ty Tuần Châu Hà Nội (nguyên đơn) và Công ty DS (bị đơn) cùng đạo diễn Hoàng Hữu Nhật Nam (tác giả của vở diễn Tinh hoa Bắc Bộ) đã hòa giải, đạt được thỏa thuận trong một số nội dung. DS bàn giao quyền chủ sở hữu kịch bản vở diễn Ngày xưa cho Tuần Châu Hà Nội. Tuần Châu là chủ sở hữu. còn đạo diễn Việt Tú là tác giả.

Vụ tranh chấp nhãn hiệu mì Hảo Hảo và mì Hảo Hạng

Ngày 26/1/2015, Acecook phát hiện sản phẩm Hảo Hạng của Asia Foods có kiểu dáng thiết kế bao bì gây nhầm lẫn với mì Hảo Hảo. Cụ thể, kiểu chữ, hình tô mì, sợi mì tôm, màu sắc chủ đạo của bao bì tạo nên một tổng thể tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu Hảo Hảo đã được bảo hộ và Cục Sở hữu trí tuệ công nhận.

Cho rằng thiết kế mới đây của mì Hảo Hạng giống hệt với bao bì mì Hảo Hảo của mình, Acecook Việt Nam quyết định kiện ra tòa, yêu cầu bốn vấn đề: xác định hành vi vi phạm của Asia Foods, buộc chấm dứt vi phạm, Asia Foods đăng báo xin lỗi công khai trong ba kỳ, bồi thường thiệt hại gần 700 triệu đồng cho Acecook.

Đầu tháng 2, Acecook Việt Nam gửi công văn khuyến cáo Asia Foods về hành vi sản xuất kinh doanh hàng hóa vi phạm nhãn hiệu. Sau đó, 2 bên nhiều lần làm việc với nhau nhưng không đạt được thống nhất.

Tại phiên tòa sơ thẩm, TAND tỉnh Bình Dương đã tuyên mì Hảo Hạng của Asia Foods có hành vi xâm phạm về sở hữu trí tuệ đối với mì Hảo Hảo của Acecook. Do đó Asia Foods phải chấm dứt vi phạm, đăng báo xin lỗi công khai ba kỳ liên tiếp. Tòa cũng tuyên Asia Foods bồi thường 80 triệu đồng chi phí luật sư cho Acecook.

Vụ án vi phạm nhãn hiệu Asano

Năm 2008, Công ty TNHH Thương mại và Sản xuất Đông Phương được cấp giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu Asano.

Đến năm 2015, Công ty phát hiện trên thị trường có Công ty cổ phần Điện tử Asanzo Việt Nam sử dụng nhãn hiệu Asanzo có kiểu dáng, mẫu mã giống với nhãn hiệu Asano mà công ty đã được đăng ký bảo hộ.

Ngày 10/8/2015, Công ty Đông Phương đã gửi hồ sơ cho Viện Khoa học sở hữu trí tuệ để giám định.

Ngày 18/8/2015, kết luận giám định khẳng định, dấu hiệu Asanzo là yếu tố xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu Asano.

Công ty Đông Phương sau đó gửi văn bản yêu cầu xử phạt hành vi trên tới các cơ quan chức năng, nhưng không nhận được phản hồi. Trong khi đó, Công ty Asanzo vẫn quảng bá rộng rã nhãn hiệu trên các phương tiện đại chúng.

Vì vậy, Công ty Đông Phương đã gửi khởi kiện vụ việc ra tòa án, yêu cầu Công ty Asanzo phải bồi thường thiệt hại số tiền tạm tính là 500 triệu đồng, xin lỗi cải chính công khai và xóa bỏ toàn bộ hàng hóa đang dán nhãn hiệu.

Bản án sơ thẩm của TAND TP.HCM năm 2018 đã tuyên buộc Công ty Asanzo chấm dứt hành vi xâm phạm, xóa bỏ nhãn hiệu Asanzo, hình đã dán trên các sản phẩm và buộc công ty này phải bồi thường số tiền 100 triệu đồng cho Công ty Đông Phương.

Nội dung công việc Luật Quốc Bảo tư vấn và giải quyết tranh chấp nhãn hiệu

  • Dịch vụ tư vấn, hướng dẫn các điều kiện trước khi tố tụng: xác định thẩm quyền của cơ quan tài phán, các điều kiện trước khi khởi tố vụ án
  • Soạn thảo đơn khởi kiện đảm bảo đúng nội dung và hình thức theo quy định tại khoản 4 Điều 189 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
  • Dịch vụ nộp tiền tạm ứng án phí
  • Dịch vụ soạn thảo hồ sơ và tài liệu đính kèm
  • Trực tiếp tham gia giải quyết tranh chấp với tư cách là người bào chữa, người đại diện theo ủy quyền cho nguyên đơn, bị đơn.
  • Tham gia vào quá trình thu thập bằng chứng
  • Thực hiện các thủ tục khiếu nại, tố cáo các hành vi, quyết định tố tụng khi cơ quan tư pháp có dấu hiệu vi phạm pháp luật.
  • Làm thủ tục kháng nghị bản án sơ thẩm
  • Tư vấn, hỗ trợ, đưa ra lời khuyên nhằm đảm bảo quyền lợi tốt nhất của khách hàng trong quá trình khởi kiện

Trên đây là thông tin về thực trạng những tranh chấp liên quan đến nhãn hiệu do các chuyên gia, tư vấn của công ty Luật Quốc Bảo biên soạn tư vấn. Nếu bạn cần hỗ trợ pháp lý hay bất kỳ thắc mắc có mong muốn được giải đáp nhanh chóng, vui lòng liên hệ với Luật Quốc Bảo qua số hotline/zalo: 076 338 7788. Chúng tôi sẽ giải đáp mọi thắc mắc cho quý khách miễn phí.

5/5 - (1 bình chọn)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.