Hành nghề luật sư như thế nào cho đúng luật định? Những tiêu chuẩn và điều kiện hành nghề luật sư ra sao? Nếu bạn muốn trở thành một luật sư chuyên nghiệp hay muốn tìm hiểu rõ về ngành nghề luật sư, hãy tham khảo ngay bài viết dưới đây của Luật Quốc Bảo để hiểu rõ hơn nhé.
Nếu bạn cần hỗ trợ pháp lý hay bất kỳ thắc mắc có mong muốn được giải đáp nhanh chóng, vui lòng liên hệ với Luật Quốc Bảo qua số hotline/zalo: 076 338 7788. Chúng tôi sẽ giải đáp mọi thắc mắc cho quý khách miễn phí.
Mục lục
- 1 Căn cứ pháp lý:
- 2 Tiêu chuẩn luật sư và điều kiện hành nghề luật sư hiện hành được quy định tại Luật luật sư 2006 và các văn bản hướng dẫn liên quan, cụ thể:
- 2.1 Tiêu chuẩn luật sư
- 2.1.1 a) Đã bị xử lý kỷ luật theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức mà quyết định kỷ luật chưa chấm dứt hiệu lực hoặc bị xử lý kỷ luật bằng hình thức buộc thôi việc mà chưa hết thời hạn 03 năm, kể từ ngày quyết định buộc thôi việc có hiệu lực.
- 2.1.2 b) Đã bị xử lý hành chính hoặc xử lý kỷ luật hoặc xử lý hình sự hoặc có kết luận của cơ quan có thẩm quyền về một trong các hành vi liên quan đến chiếm đoạt tài sản, trục lợi, gian lận, gian dối, xâm phạm an ninh quốc gia.
- 2.1.3 Hành nghề luật sư theo quy định hiện hành
- 2.2 – Miễn đào tạo nghề luật sư đối với các đối tượng gồm:
- 2.3 – Miễn, giảm thời gian tập sự hành nghề luật sư đối với các đối tượng gồm:
- 2.4 Điều kiện hành nghề luật sư
- 2.1 Tiêu chuẩn luật sư
- 3 Biểu mẫu tham khảo:
- 4 Con đường trở thành một Luật sư có khó không?
- 4.0.1 1. Có bằng cử nhân Luật:
- 4.0.2 2. Có bằng tốt nghiệp chương trình đào tạo Luật sư:
- 4.0.3 3. Trải qua kỳ tập sự tại Tổ chức hành nghề Luật sư:
- 4.0.4 4. Đạt điểm tại kỳ kiểm tra hết tập sự hành nghề Luật sư:
- 4.0.5 5. Cấp chứng chỉ và gia nhập đoàn Luật sư, cấp thẻ hành nghề Luật sư:
- 4.0.6 6. Hành nghề Luật sư:
- 5 Câu hỏi tình huống thường gặp:
- 5.1 Trả lời:
- 5.1.1 Cơ sở pháp lý
- 5.1.2 Phạm vi hành nghề luật sư là gì?
- 5.1.3 Hình thức hành nghề luật sư là gì?
- 5.1.4 Hoạt động hành nghề của luật sư là gì?
- 5.1.4.1 Trong lĩnh vực tố tụng cũng như trong lĩnh vực tư vấn đều có những người có kiến thức chuyên sâu và kỹ năng quản lý chuyên nghiệp.
- 5.1.4.2 Pháp luật Việt Nam không có quy định phân biệt mỗi luật sư chỉ được hoạt động trong lĩnh vực tư vấn hoặc tranh tụng. Luật sư cũng có thể đưa ra lời khuyên và tham gia tranh tụng.
- 5.1.4.3 Công việc hoạt động có thể đồng thời là các quyền của công việc đó có thể bao gồm:
- 5.1.5 Tiếp xúc riêng với người được bảo vệ (thân chủ)
- 5.1.5.1 Mục tiêu tiếp theo là thông qua các buổi gặp gỡ, luật sư từng bước xây dựng và duy trì mối quan hệ tin cậy lẫn nhau giữa luật sư và người được bảo vệ.
- 5.1.5.2 Luật sư phải làm cho thân chủ hiểu rằng họ không thể che giấu luật sư của mình. Nếu không có sự tin tưởng giữa luật sư và người được bảo vệ thì việc hành nghề của anh ta sẽ thất bại.
- 5.1.5.3 Điều 74 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định thời gian tham gia tố tụng như sau:
- 5.1.5.4 Như vậy, luật sư có quyền tiếp xúc riêng với phạm nhân bị tạm giữ, tạm giam kể từ khi khởi tố bị can.
- 5.1.5.5 Khi xử lý bị cáo đang bị tạm giam, không ai ngoài luật sư có thể ngồi bên cạnh hoặc sử dụng các thủ thuật để theo dõi nội dung của các cuộc tiếp xúc đó.
- 5.1.6 Được đọc hồ sơ vụ án
- 5.1.7 Liên hệ với cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội để tìm hiểu hoặc để nghị được cung cấp tài liệu, chứng cứ
- 5.1.8 Hòa giải
- 5.1.8.1 Điều này là rất cần thiết đối với việc giải quyết các tranh chấp về dân sự, kinh tế, lao động. Đối với các vụ kiện hành chính, sự thỏa thuận, cũng là một hình thức hòa giải.
- 5.1.8.2 Các luật sư có kinh nghiệm thường không thúc đẩy thân chủ của mình theo vụ kiện đến cùng. Các luật sư của các bên có thể gặp riêng với nhau theo sự uỷ quyền của thân chủ của mình để đàm phán về việc hòa giải.
- 5.1.9 Tham dự các hoạt động điều tra
- 5.1.9.1 Mặt khác, nếu cơ quan điều tra tạo thuận lợi cho luật sư bào chữa tham gia tố tụng ngay từ khi khỏi tố bị can, luật sư được tham gia trong các lần hỏi cung hoặc các hoạt động điều tra khác thì chắc chắn là sẽ không có sự phản cung đó.
- 5.1.9.2 Sự có mặt của luật sư, người bào chữa khi hỏi cung bị can sẽ có tác dụng ngăn ngừa các hành vi vi phạm trong hỏi cung như bức cung, mớm cung, V.V..
- 5.1.9.3 Theo quy định tại Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành, luật sư có quyền có mặt trong những hoạt động điều tra khác với điều kiện phải được điều tra viên đồng ý.
- 5.1.10 Tham dự phiên tòa
- 5.1.10.1 Vì vậy, việc có mặt tại phiên tòa của luật sư là quyền, đồng thời là dịch vụ bắt buộc đối với luật sư.
- 5.1.10.2 Đây là một số trường hợp có thể được làm như sau:
- 5.1.10.3 Việc tiến hành kiểm tra, xử lý mà không có sự tham gia của luật sư thì không thể đảm bảo sự bình đẳng trong tranh tụng.
- 5.1.10.4 Vì vậy, xu hướng chung hiện nay ở các nước là Tòa án thường tạo điều kiện cho luật sư và những người có quyền bảo vệ, quyền lợi báo cáo, đương sự có thể trực tiếp tham gia phiên họp.
- 5.1 Trả lời:
Căn cứ pháp lý:
– Điều 10, 13, 16 Luật Luật sư 2006.
– Khoản 7 Điều 1 Luật Luật sư sửa đổi 2012.
– Khoản 2 Điều 1 Nghị định 137/2020/NĐ-CP ngày 08/10/2018.
– Thông tư 02/2015/TT-BTP ngày 16/01/2015.
Tiêu chuẩn luật sư và điều kiện hành nghề luật sư hiện hành được quy định tại Luật luật sư 2006 và các văn bản hướng dẫn liên quan, cụ thể:
Tiêu chuẩn luật sư
Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khoẻ bảo đảm hành nghề luật sư thì có thể trở thành luật sư; trong đó:
“Điều 2a. Người không đủ tiêu chuẩn về tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; người không đủ tiêu chuẩn về phẩm chất đạo đức tốt theo quy định tại Điều 10 của Luật luật sư
- Người thuộc một trong các trường hợp sau đây thì không đủ tiêu chuẩn tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, không đủ tiêu chuẩn về phẩm chất đạo đức tốt theo quy định tại Điều 10 của Luật luật sư:
a) Đã bị xử lý kỷ luật theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức mà quyết định kỷ luật chưa chấm dứt hiệu lực hoặc bị xử lý kỷ luật bằng hình thức buộc thôi việc mà chưa hết thời hạn 03 năm, kể từ ngày quyết định buộc thôi việc có hiệu lực.
Đã bị xử lý hành chính về một trong các hành vi vi phạm trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, trợ giúp pháp lý, quy định về gây thiệt hại đến tài sản của người khác, quy định về bảo vệ bí mật Nhà nước, cản trở, chống lại việc thanh tra, kiểm tra, kiểm soát của người thi hành công vụ hoặc đưa hối lộ người thi hành công vụ nhưng chưa hết thời hạn 01 năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử lý hành chính;
b) Đã bị xử lý hành chính hoặc xử lý kỷ luật hoặc xử lý hình sự hoặc có kết luận của cơ quan có thẩm quyền về một trong các hành vi liên quan đến chiếm đoạt tài sản, trục lợi, gian lận, gian dối, xâm phạm an ninh quốc gia.
Ứng xử, phát ngôn làm ảnh hưởng đến hình ảnh, uy tín nghề luật sư hoặc gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; tham gia, lôi kéo, kích động, mua chuộc, cưỡng ép người khác tập trung đông người để gây rối trật tự công cộng, thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật hoặc vi phạm quy định tại điểm b, d, e, g, i hoặc k khoản 1 Điều 9 của Luật luật sư; vi phạm pháp luật khác do cố ý đã bị xử lý kỷ luật từ hai lần trở lên.
Hành nghề luật sư theo quy định hiện hành
Người thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều này mà quyết định kỷ luật đã chấm dứt hiệu lực hoặc đã hết thời hạn 03 năm, kể từ ngày quyết định kỷ luật buộc thôi việc có hiệu lực hoặc đã hết thời hạn 01 năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử lý hành chính hoặc người bị kết án về tội phạm do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng do cố ý mà đã được xóa án tích và không thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều này nếu có văn bản giải trình, cam kết về quá trình phấn đấu về việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật.
Có phẩm chất đạo đức tốt và có xác nhận của cơ quan, tổ chức nơi làm việc cuối cùng của người đó trước thời điểm đề nghị cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư hoặc của công an xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú thì được coi là đã sửa chữa, rèn luyện và đáp ứng tiêu chuẩn về tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt theo quy định tại Điều 10 của Luật luật sư.
– Miễn đào tạo nghề luật sư đối với các đối tượng gồm:
+ Đã là thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên.
+ Giáo sư, phó giáo sư chuyên ngành luật; tiến sỹ luật.
+ Đã là thẩm tra viên cao cấp ngành Toà án, kiểm tra viên cao cấp ngành Kiểm sát; chuyên viên cao cấp, nghiên cứu viên cao cấp, giảng viên cao cấp trong lĩnh vực pháp luật.
+ Đã là thẩm tra viên chính ngành Toà án, kiểm tra viên chính ngành Kiểm sát; chuyên viên chính, nghiên cứu viên chính, giảng viên chính trong lĩnh vực pháp luật.
– Miễn, giảm thời gian tập sự hành nghề luật sư đối với các đối tượng gồm:
+ Người đã là thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên cao cấp, điều tra viên trung cấp, giáo sư, phó giáo sư chuyên ngành luật, tiến sỹ luật, thẩm tra viên cao cấp ngành Tòa án, kiểm tra Viên cao cấp ngành Kiểm sát, chuyên viên cao cấp, nghiên cứu viên cao cấp, giảng viên cao cấp trong lĩnh vực pháp luật được miễn tập sự hành nghề luật sư.
+ Người đã là điều tra viên sơ cấp, thẩm tra viên chính ngành Tòa án, kiểm tra viên chính ngành Kiểm sát, chuyên viên chính, nghiên cứu viên chính, giảng viên chính trong lĩnh vực pháp luật được giảm 2/3 thời gian tập sự hành nghề luật sư.
+ Người có thời gian công tác ở các ngạch chuyên viên, nghiên cứu viên, giảng viên trong lĩnh vực pháp luật, thẩm tra viên ngành Tòa án, kiểm tra viên ngành Kiểm sát từ mười năm trở lên thì được giảm một nửa thời gian tập sự hành nghề luật sư.
Điều kiện hành nghề luật sư
– Người có đủ tiêu chuẩn luật sư theo quy định nêu trên muốn được hành nghề luật sư phải có Chứng chỉ hành nghề và gia nhập một Đoàn luật sư.
– Đơn đề nghị cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư được khai theo mẫu TP-LS-01.
Biểu mẫu tham khảo:
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
| |||||
| |||||
ĐƠN ĐỀ NGHỊ
CẤP CHỨNG CHỈ HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ
Kính gửi: Bộ Tư pháp
Tên tôi là (ghi bằng chữ in hoa): ………………………………………………. Nam/Nữ……………
Ngày sinh: ……………./…………./…………………. Quốc tịch: ………………………………………………
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú:……………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………………………………………………………….
Chỗ ở hiện nay: ………………………………………………………………………………………………………..
Điện thoại: ……………………………………………… Email: …………………………………………………….
Chứng minh nhân dân số: ………………………………………………………………………………………..
Ngày cấp: ……../……../…………………… Nơi cấp:…………………………………………………………….
Đã đạt kết quả kiểm tra tập sự hành nghề luật sư kỳ …………………. năm ……………….
Được miễn tập sự hành nghề luật sư (ghi rõ lý do):………………………………………………..
Quá trình hoạt động của bản thân (từ khi tốt nghiệp đại học đối với người phải qua đào tạo nghề luật sư, trong quá trình công tác tại các cơ quan đối với người được miễn đào tạo nghề luật sư): ……………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………………………………………………………….
Khen thưởng, kỷ luật (từ khi tốt nghiệp đại học đối với người phải qua đào tạo nghề luật sư, trong quá trình công tác tại các cơ quan đối với người được miễn đào tạo nghề luật sư): ………………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………………………………………………………….
Tôi đề nghị được cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư. Tôi xin chịu trách nhiệm về những nội dung nêu trên và cam đoan tuân thủ các nguyên tắc hành nghề luật sư, thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của luật sư do pháp luật quy định.
Tỉnh (thành phố), ngày tháng năm Người làm đơn (Ký và ghi rõ họ tên) |
Con đường trở thành một Luật sư có khó không?
Để được công nhận là luật sư và hoạt động với tư cách luật sư, bạn phải đạt đủ các tiêu chuẩn theo quy định tại Luật Luật sư 2006.
Theo đó, muốn trở thành luật sư, mỗi người phải tốt nghiệp các trường đào tạo cử nhân luật, tham gia khóa học đào tạo nghề luật sư của Học viện tư pháp trong vòng mười hai tháng, tập sự hành nghề luật sư trong vòng mười hai tháng và cuối cùng là trải qua kỳ thi cấp quốc gia do Bộ Tư Pháp tổ chức để được cấp “Chứng chỉ hành nghề luật sư”. Cụ thể:
1. Có bằng cử nhân Luật:
Cá nhân phải tốt nghiệp trường Đại học Luật, khoa Luật của trường Đại học (4 năm học).
2. Có bằng tốt nghiệp chương trình đào tạo Luật sư:
Lớp học được đăng ký tại Học viện tư pháp (12 tháng), sau đó đạt kết quả qua kỳ thi tốt nghiệp của Học viện tư pháp, và được cấp bằng tốt nghiệp lớp Luật sư.
3. Trải qua kỳ tập sự tại Tổ chức hành nghề Luật sư:
Sau khi tốt nghiệp lớp đào tạo Luật sư, cá nhân bắt buộc phải đăng ký tập sự tại 1 tổ chức hành nghề Luật sư với thời gian 12 tháng.
4. Đạt điểm tại kỳ kiểm tra hết tập sự hành nghề Luật sư:
Sau khi hoàn thành thời gian tập sự, người tập sự được tham gia kỳ kiểm tra hết tập sự hành nghề Luật sư nếu đạt điểm thì được cấp chứng chỉ hành nghề Luật sư. Nếu không đạt điểm theo quy định thì được gia hạn tập sự và tham gia kỳ kiểm tra lại.
5. Cấp chứng chỉ và gia nhập đoàn Luật sư, cấp thẻ hành nghề Luật sư:
Nếu đạt kết quả trong kỳ kiểm tra hết tập sự hành nghề Luật sư thì cá nhân làm hồ sơ theo quy định để xin cấp chứng chỉ hành nghề Luật sư do Bộ tư pháp cấp, cấp thẻ hành nghề Luật sư do Liên đoàn Luật sư Việt Nam cấp.
6. Hành nghề Luật sư:
Sau khi được cấp chứng chỉ, gia nhập đoàn, cấp thẻ hành nghề Luật sư thì Luật sư được lựa chọn tổ chức hành nghề Luật sư để hành nghề, hoặc hành nghề với tư cách cá nhân và phải đăng ký với Sở tư pháp địa phương nơi hành nghề.”
Câu hỏi tình huống thường gặp:
Thưa luật sư. Theo tôi được biết dịch vụ pháp lý của luật sư bao gồm tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng và các dịch vụ pháp lý khác. Vậy thực tế để thực hiện các dịch vụ pháp lý này luật sư sẽ thực hiện thông qua hình thức hành nghề nào ạ? Rất mong nhận được giải đáp từ luật sư.
Trả lời:
Cơ sở pháp lý
– Luật luật sư năm 2006 (sửa đổi năm 2012)
– Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
Phạm vi hành nghề luật sư là gì?
Theo quy định tại Điều 22 Luật luật sư năm 2006 phạm vi hành nghề luật sư được quy định như sau:
– Tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc là người bảo vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự.
– Tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hoặc là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính, việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và các vụ, việc khác theo quy định của pháp luật.
– Thực hiện tư vấn pháp luật.
– Đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng để thực hiện các công việc có liên quan đến pháp luật.
– Thực hiện dịch vụ pháp lý khác theo quy định của Luật này.
Hình thức hành nghề luật sư là gì?
Điều 23 Luật luật sư năm 2006 (sửa đổi năm 2012) quy định về hình thức hành nghề của luật sư. Theo đó, luật sư được lựa chọn một trong hai hình thức hành nghề sau đây:
– Hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư được thực hiện bằng việc thành lập hoặc tham gia thành lập tổ chức hành nghề luật sư; làm việc theo hợp đồng lao động cho tổ chức hành nghề luật sư;
– Hành nghề với tư cách cá nhân theo quy định tại Điều 49 của Luật này.
Hoạt động hành nghề của luật sư là gì?
Luật sư hành nghề dưới hai hoạt động cơ bản: tranh tụng và tư vấn.
Tranh luận được gọi là biện minh, phương pháp luận, chứng minh hoặc phản biện, chứng minh điều ngược lại. Tranh tụng là một hình thức hành nghề của luật sư trong quá trình tố tụng. Những luật sư này được gọi là luật sư tranh tụng.
Tư vấn pháp luật do người giải thích pháp luật đưa ra hoặc giúp người lựa chọn đối tượng xử lý đúng pháp luật, đạt hiệu quả tối đa. Những luật sư này được gọi là cố vấn.
Trong lĩnh vực tố tụng cũng như trong lĩnh vực tư vấn đều có những người có kiến thức chuyên sâu và kỹ năng quản lý chuyên nghiệp.
Đối tượng điều chỉnh của pháp luật ngày càng đa dạng hơn. Một luật sư chỉ có một nghề nghiệp đủ tiêu chuẩn là kết quả của một lĩnh vực pháp luật nhất định và một bộ phận quản lý một loại nghề nghiệp nhất định.
Kể từ đó ở một số nước đã có sự phân biệt giữa luật sư hội họa và luật sư tư vấn. Mỗi luật sư chỉ được đăng ký hành nghề về một hoặc một số lĩnh vực pháp luật nhất định dưới hình thức luật sư vẽ tranh hoặc luật sư tư vấn.
Quy định này tạo điều kiện cho luật sư có chuyên môn ngày càng giỏi, chuyên sâu. Nhưng việc thực thi cũng chỉ ra cách phân biệt luật thành hai loại luật: luật sư vẽ tranh và luật sư tư vấn không phải lúc nào cũng tốt.
Theo nghĩa, định nghĩa nghi vấn cũng là một loại dịch vụ. Lý do của dịch vụ kinh doanh được hiểu là bao gồm cả tư vấn và kiện tụng.
Pháp luật Việt Nam không có quy định phân biệt mỗi luật sư chỉ được hoạt động trong lĩnh vực tư vấn hoặc tranh tụng. Luật sư cũng có thể đưa ra lời khuyên và tham gia tranh tụng.
Luật sư và luật sư tranh tụng là hai cụm từ dùng để mô tả một cách khái quát, hai loại luật sư cơ bản. Trong hoạt động thực thi, luật sư làm công việc tư vấn hoặc tranh tụng chia sẻ nhiều loại hoạt động cụ thể được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt là luật.
Công việc hoạt động có thể đồng thời là các quyền của công việc đó có thể bao gồm:
– Tiếp xúc riêng cá nhân với người được bảo vệ;
– Để đọc hồ sơ dịch vụ;
– Liên hệ với các cơ quan nhà nước, các tổ chức đoàn thể xã hội để tìm hiểu sự việc hoặc yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ;
– Hòa giải;
– Tham gia kiểm soát hoạt động;
– Tham dự phiên tòa.
Tiếp xúc riêng với người được bảo vệ (thân chủ)
Tiếp xúc riêng với những người được bảo vệ là một hình thức hoạt động mà luật sư rất coi trọng khi hành nghề luật sư. Thông qua các cuộc gặp riêng, luật sư bảo vệ quyền lợi sẽ hiểu hết được bản chất và diễn biến của vụ việc.
Không ai hiểu tường tận hơn người trong cuộc. Biết được bản chất đầy đủ của sự việc là điều mà bất kỳ luật sư nào cũng phải làm trước khi thiết lập một kế hoạch hành động.
Mục tiêu tiếp theo là thông qua các buổi gặp gỡ, luật sư từng bước xây dựng và duy trì mối quan hệ tin cậy lẫn nhau giữa luật sư và người được bảo vệ.
Người được bảo vệ phải tin tưởng rằng luật sư bảo vệ quyền lợi của họ có khả năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, giữ bí mật đời sống riêng tư và công việc của họ. kinh doanh của họ. Các luật sư cũng phải có cách tiếp cận phù hợp để người được họ bảo vệ nói tất cả những gì họ cần biết.
Luật sư phải làm cho thân chủ hiểu rằng họ không thể che giấu luật sư của mình. Nếu không có sự tin tưởng giữa luật sư và người được bảo vệ thì việc hành nghề của anh ta sẽ thất bại.
Luật sư phải chứng minh cho người được bảo vệ nhận thức và tin tưởng rằng những gì họ gửi cho luật sư là có cơ sở.
Để nói lên bản chất của mối quan hệ đặc biệt giữa luật sư và người được bảo vệ, danh từ “thân chủ” được dùng để thay thế danh từ “thân chủ”. Trước các cơ quan tư pháp, luật sư hoàn toàn được quyền gọi người mà mình phục vụ là “thân chủ”.
Việc tiếp xúc riêng giữa luật sư với đương sự trong các vụ án dân sự, kinh tế, lao động, hành chính hoặc với bị can trong vụ án hình sự mà không bị tạm giữ, tạm giam không bị hạn chế. Không có gì.
Việc tiếp xúc riêng với người bị tạm giữ, người bị tạm giam phải tuân theo những thủ tục nhất định do pháp luật quy định.
Pháp luật quy định các cơ quan tư pháp tạo điều kiện thuận lợi để luật sư tiếp xúc riêng với thân chủ đang bị tạm giữ, tạm giam.
Điều 74 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định thời gian tham gia tố tụng như sau:
“Người bào chữa đã tham gia tố tụng kể từ khi khởi tố bị can.
Trong trường hợp bắt, tạm giữ người thì người bào chữa tham gia tố tụng kể từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở Cơ quan điều tra, cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định. . ý định nắm giữ.
Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra về tội phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền quyết định cho người bào chữa tham gia tố tụng kể từ khi kết thúc điều tra. “
Như vậy, luật sư có quyền tiếp xúc riêng với phạm nhân bị tạm giữ, tạm giam kể từ khi khởi tố bị can.
Trong quá trình xét xử, nếu cần, Luật sư có thể yêu cầu Tòa án tạm dừng phiên tòa để trao đổi riêng với thân chủ.
Trong các phiên tòa dân sự, kinh tế, lao động, luật sư của hai bên có thể đề nghị tạm dừng, hoãn phiên tòa để các bên tranh chấp hòa giải với nhau.
Luật sư có quyền giữ bí mật những nội dung mà thân chủ đã nói với luật sư. Không ai có quyền bắt luật sư tiết lộ những gì mình biết khi tiếp xúc riêng tư với thân chủ.
Khi xử lý bị cáo đang bị tạm giam, không ai ngoài luật sư có thể ngồi bên cạnh hoặc sử dụng các thủ thuật để theo dõi nội dung của các cuộc tiếp xúc đó.
Điều này không có nghĩa là ban giám hiệu nhà tù không có thẩm quyền, mà là các giám thị phải thực hiện tất cả các bước thích hợp để ngăn chặn hoặc loại bỏ hành vi gian dối, trái pháp luật của luật sư hoặc bị cáo khi họ tương tác để che giấu cảm giác tội lỗi của mình.
Tiếp xúc giữa luật sư với khách hàng tại một cơ sở giam giữ hoặc xét xử nằm trong tầm nhìn và không nằm trong tầm ngắm của viên chức quản chế hoặc người bào chữa của tòa án.
Trong quá trình tiếp xúc riêng với khách hàng trong quá trình điều tra, luật sư có quyền kiến nghị cơ quan điều tra thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp cưỡng chế đã áp dụng đối với mình nếu có căn cứ pháp luật.
Được đọc hồ sơ vụ án
Đọc, nghiên cứu hồ sơ vụ án là một hình thức hành nghề và là quyền của luật sư, người bảo vệ để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ cho thân chủ.
Việc nghiên cứu, đọc hồ sơ thường được thực hiện khi vụ án đã được giải quyết xong và có quyết định thụ lý của Tòa án đưa vụ án ra xét xử công khai.
Trước khi tham gia tố tụng tại phiên tòa, luật sư được biết toàn bộ nội dung hồ sơ vụ án; nội dung kết luận của người giám định, kết luận của cơ quan tư pháp.
Vì vậy, việc đọc và nghiên cứu hồ sơ vụ án có tác dụng quan trọng và quyết định đến việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ của luật sư. Khi nghiên cứu, đọc hồ sơ, luật sư có quyền yêu cầu cơ quan tư pháp thu thập thêm chứng cứ để triệu tập thêm người làm chứng, tiến hành giám định …
Các khuyến nghị của luật sư phải được thực hiện bằng văn bản.
Khi không có điều kiện đọc, nghiên cứu hồ sơ, luật sư có thể nêu lý do và đề nghị hoãn phiên tòa. Việc luật sư đề nghị hoãn phiên tòa vì không có thời gian đọc, nghiên cứu hồ sơ, trong hầu hết các trường hợp đều được Tòa chấp nhận.
Khi đọc, nghiên cứu hồ sơ, luật sư có quyền ghi chú, trích dẫn những điều cần thiết trong hồ sơ vụ án để chuẩn bị cho công việc bảo vệ của mình. Luật sư cũng có thể xin sao y hoặc phô tô các giấy tờ cần thiết của hồ sơ nhưng phải được sự đồng ý của cán bộ tư pháp – người được ủy quyền.
Liên hệ với cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội để tìm hiểu hoặc để nghị được cung cấp tài liệu, chứng cứ
Trong quá trình tố tụng, bị can, các bên đương sự có quyền đưa thêm những chứng cứ để bảo vệ quyền lợi cho mình. Luật sư là người giúp thân chủ của mình thu thập và trình bày trước Toà các chứng cứ còn thiếu. Luật sư có thể thực hiện điều này bằng hai cách:
– Đề nghị với cơ quan tư pháp tiến hành thu thập thêm chứng cứ.
– Tự mình thu thập.
Đối với các vụ án hình sự thì luật sư có quyền kiến nghị vói cơ quan tư pháp thực hiện. Đối với các vụ án dân sự, kinh tế, lao động, hành chính thì các bên đương sự phải có nghĩa vụ chứng minh.
Do vậy luật sư phải tự mình thu thập chứng cứ, đặc biệt là đối với các chứng cứ là những tài liệu, chứng từ về thuế, về kế toán tài chính, về xuất nhập khẩụ, về bệnh án, …
Luật pháp tố tụng hiện hành của Việt Nam chưa có sự quy định cụ thể về vấn đề này nhưng trong thực tế đây là một nhu cầu cần thiết cho vấn đề bảo đảm công lý trong xét xử.
Các luật sư vẫn phải liên hệ với các cơ quan có liên quan để sưu tầm chứng cứ. Việc tiếp và đáp ứng các yêu cầu chính đáng của luật sư còn tuỳ thuộc vào thiện ý của những viên chức có liên quan.
Do vậy, đây cũng là một trong những trở ngại mà luật sư thường gặp phải trong quá trình hành nghề luật sư.
Hòa giải
Trừ các vụ án hình sự, pháp luật các nước cũng như ở Việt Nam, đều có sự khuyến khích các bên tranh chấp trong các vụ án dân sự, kinh tế, lao động, hành chính tự hòa giải với nhau.
Nếu các bên tranh chấp hòa giải được với nhau thì việc kiện tụng sớm được chấm dứt, tiết kiệm được cho Nhà nước cũng như cho các bên có liên quan về sức lực, tiền bạc và thời gian.
Lợi ích to lớn của hòa giải là tránh được sự đối đầu căng thẳng, tạo ra được những mối quan hệ thân thiện hợp tác lâu dài với nhau.
Điều này là rất cần thiết đối với việc giải quyết các tranh chấp về dân sự, kinh tế, lao động. Đối với các vụ kiện hành chính, sự thỏa thuận, cũng là một hình thức hòa giải.
Giữa viên chức, cơ quan nhà nước – người ra quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính bị kiện với bên kiện – là người dân, là cá nhân, là cơ quan nhà nước, là tổ chức cũng được luật pháp khuyến khích việc thỏa thuận để chấm dứt vụ kiện.
Các luật sư có kinh nghiệm thường không thúc đẩy thân chủ của mình theo vụ kiện đến cùng. Các luật sư của các bên có thể gặp riêng với nhau theo sự uỷ quyền của thân chủ của mình để đàm phán về việc hòa giải.
Hòa giải là một loại hình hoạt động mà các luật sư phải hết sức quan tâm và luôn trau dồi kỹ năng trong thực hiện để bảo đảm thành cồng trong hòa giải.
Tham dự các hoạt động điều tra
Điểm b khoản 1 Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: “Có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can.
Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can;
Có một thực tế đã xảy ra là trong một số vụ án, khi đưa ra xét xử công khai, bị cáo phản lại những gì mà họ khai trong quá trình điều tra với lý do là người tiến hành điều tra đã bức cung, mớm cung họ. Một số ý kiến cho rằng đó là hậu quả của việc luật sư gợi ý cho bị cáo phản cung.
Để bác bỏ lời phản cung của bị cáo, có thẩm phán đã cho tuyên đọc biên bản ghi cung của cơ quan điều tra mà cuối trang đã có chữ ký xác nhận của bị cáo là bị cáo đã đọc lại biên bản ghi cung và đã tự mình ký vào sự xác nhận này. Cách làm này của thẩm phán không có tính thuyết phục.
Lời cung không phải là chứng cứ duy nhất. Vì vậy, cho dù bị cáo phản cung, nhưng cơ quan điều tra đã thu thập được đầy đủ các chứng cứ khác có sức thuyết phục thì sự phản cung của bị cáo sẽ không có tác dụng.
Mặt khác, nếu cơ quan điều tra tạo thuận lợi cho luật sư bào chữa tham gia tố tụng ngay từ khi khỏi tố bị can, luật sư được tham gia trong các lần hỏi cung hoặc các hoạt động điều tra khác thì chắc chắn là sẽ không có sự phản cung đó.
Sự có mặt của luật sư, người bào chữa khi hỏi cung bị can sẽ có tác dụng ngăn ngừa các hành vi vi phạm trong hỏi cung như bức cung, mớm cung, V.V..
Nếu có hành vi vi phạm thủ tục, phương pháp hỏi cung thì luật sư có quyền phản đối. Vậy, có câu hỏi đặt ra là sự phản đối của luật sư về những việc vi phạm trình tự thủ tục tố tụng trong điều tra có được ghi vào biên bản không?
Nếu người tiến hành tố tụng từ chối sự có mặt của luật sư trong các lần hỏi cung bị can trong các vụ án không phải là tội xâm phạm an ninh quốc gia thì sẽ chịu những hậu quả gì?
Các hoạt động điều tra khác là các hoạt động: Khám nghiệm hiện trường, khám nhà, khám người, khám đồ vật, thực nghiệm điều tra, đối chất, nhận diện, lấy lời khai của những người tham gia tố tụng khác, …
Sự có mặt của luật sư, người bảo vệ trong những hoạt động điều tra khác cũng rất cần thiết. Nó có tác dụng ngăn ngừa những vi phạm có thể xảy ra như hiện tượng thiếu trung thực, thiếu khách quan trong thu thập và đánh giá chứng cứ.
Theo quy định tại Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành, luật sư có quyền có mặt trong những hoạt động điều tra khác với điều kiện phải được điều tra viên đồng ý.
Nếu điều tra viên không đồng ý thì người bảo vệ không được quyền tham gia. Luật không nêu rõ căn cứ pháp lý của sự đồng ý hoặc không đồng ý.
Điều này có thể dễ dẫn đến sự tuỳ tiện của người tiến hành tố tụng và gây cản trở cho việc xác minh sự thật và bảo đảm công lý trong giải quyết các vụ án.
Tham dự phiên tòa
Trong quá trình giải quyết tố cáo, luật sư có các quyền như: đề nghị thay đổi Kiểm sát viên, Kiểm sát viên, người phiên dịch theo quy định của pháp luật; khiếu nại các quyết định của cơ quan tố tụng, có quyền yêu cầu lục, bổ sung chứng cứ, …
Luật sư có quyền sử dụng các quyền này từ giai đoạn điều tra. Một số hoạt động mang tính quyết định của luật sư là hoạt động tại phiên tòa.
Hoạt động tại phiên toà công khai là hoạt động tập trung, tiêu biểu, có tính chất quyết định đối với mọi hoạt động của các cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng.
Vì vậy, việc có mặt tại phiên tòa của luật sư là quyền, đồng thời là dịch vụ bắt buộc đối với luật sư.
Tuy nhiên, trên thực tế đã có những trường hợp luật sư chỉ gửi hồ sơ bào chữa cho Tòa án thay vì phải xuất hiện tại Tòa án.
Đây là một số trường hợp có thể được làm như sau:
– Luật sư rơi vào tình trạng bị ốm hoặc trường hợp bất khả kháng.
– Luật sư nhận bảo vệ một số trường hợp. Vì vậy, một luật sư chỉ có thể tham gia một dịch vụ, và đối với các dịch vụ khác, hãy gửi việc sửa chữa cho Tòa án.
– Dịch vụ luật sư bảo vệ do Tòa án chỉ định. Vì không tiện từ chối nên luật sư chỉ gửi văn bản bào chữa cho Tòa án thay thế trực tiếp tham gia gây án.
Việc tiến hành kiểm tra, xử lý mà không có sự tham gia của luật sư thì không thể đảm bảo sự bình đẳng trong tranh tụng.
Với việc có luật sư tham dự, việc tranh tụng tại Tòa án sẽ trở nên nổi bật hơn. Thông qua việc vẽ tranh trên nguyên tắc bình đẳng, có thể thực hiện được sự thật, tính hợp hiến, hợp pháp và đạo đức tại nơi làm việc, trong tất cả các chứng chỉ.
Điều này sẽ giúp Tòa án đưa ra những quyết định đúng đắn và có chiều sâu thuyết phục.
Vì vậy, xu hướng chung hiện nay ở các nước là Tòa án thường tạo điều kiện cho luật sư và những người có quyền bảo vệ, quyền lợi báo cáo, đương sự có thể trực tiếp tham gia phiên họp.
Luật cũng không có giới hạn về số lượng luật mà mỗi người có thể, được báo cáo, mỗi người được mời. Cũng không phải lúc tranh tụng hay gián đoạn luật sư trong khi luật sư đang phát biểu.
Trong trường hợp luật sư phát biểu về những vấn đề nằm ngoài phạm vi, cần nhắc nhở hợp lý để luật sư không bị lạc. Đó là biểu hiện văn hóa hành nghề luật.
Trên đây là thông tin về Hành nghề luật sư. Nếu bạn cần hỗ trợ pháp lý hay bất kỳ thắc mắc có mong muốn được giải đáp nhanh chóng, vui lòng liên hệ với Luật Quốc Bảo qua số hotline/zalo: 076 338 7788. Chúng tôi sẽ giải đáp mọi thắc mắc cho quý khách miễn phí.