Những quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường? Tìm hiểu rõ các khái niệm bảo vệ môi trường và pháp luật môi trường, những vấn đề liên quan đến môi trường thông qua bài viết sau đây. Mời Quý khách cùng tham khảo.
Nếu bạn cần hỗ trợ pháp lý hay bất kỳ thắc mắc có mong muốn được giải đáp nhanh chóng, vui lòng liên hệ với Luật Quốc Bảo qua số hotline/zalo: 076 338 7788. Chúng tôi sẽ giải đáp mọi thắc mắc cho quý khách miễn phí.
Mục lục
- 1 Bảo vệ môi trường là gì?
- 2 Luật bảo vệ môi trường là gì ?
- 3 Tìm hiểu quy định của luật bảo vệ môi trường
- 3.1 Đối tượng điều chỉnh của Luật Bảo vệ môi trường là các mối quan hệ phát sinh giữa các chủ thể tham gia sử dụng hoặc tác động đến các yếu tố môi trường, bao gồm các loại quan hệ sau:
- 3.2 Về phạm vi điều chỉnh, Luật Bảo vệ môi trường điều chỉnh các hành vi của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước; các tổ chức quốc tế; tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia sử dụng hoặc tác động đến các yếu tố môi trường trên toàn lãnh thổ, lãnh hải và thềm lục địa Việt Nam.
- 3.3 Về cơ cấu và nội dung cơ bản, Luật có lời nói đầu và 7 chương với 55 điều. Mỗi chương đều có tên gọi phản ánh nội dung chính của chương. Lời nói đầu xác định tầm quan trọng đặc biệt của môi trường và mục đích của việc ban hành Luật.
- 3.4 Qua 12 năm thực hiện, Luật bảo vệ môi trường năm 1993 đã góp phần quan trọng trong việc bảo vệ môi trường ở Việt Nam.
- 4 Vai trò của pháp luật trong bảo vệ môi trường
- 5 Ý nghĩa của pháp luật trong bảo vệ môi trường được phản ánh trong các khía cạnh sau:
- 5.1 Người dân sử dụng và khai thác môi trường theo các tiêu chuẩn nhất định sẽ hạn chế tác hại và ngăn ngừa suy thoái.
- 5.2 Luật có tác dụng rất lớn trong việc tạo ra một cơ chế hoạt động hiệu quả cho các tổ chức bảo vệ môi trường.
- 5.3 – Vai trò to lớn của pháp luật trong bảo vệ môi trường được thể hiện qua việc ban hành các tiêu chuẩn môi trường.
- 6 Ý nghĩa của việc bảo vệ môi trường
- 7 Trách nhiệm bảo vệ môi trường
- 8 Những quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường
- 8.1 Nguyên tắc bảo vệ môi trường (căn cứ tại Điều 4)
- 8.2 Chính sách của Nhà nước về bảo vệ môi trường (căn cứ Điều 5)
- 8.2.1 Đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư cho bảo vệ môi trường; bố trí khoản chi riêng cho bảo vệ môi trường trong ngân sách nhà nước với tỷ lệ tăng dần theo khả năng của ngân sách nhà nước và yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ môi trường; ưu tiên nguồn kinh phí cho các nhiệm vụ trọng điểm về bảo vệ môi trường.
- 8.2.2 Mở rộng, tăng cường hội nhập, hợp tác quốc tế, và thực hiện cam kết quốc tế về bảo vệ môi trường.
- 8.3 Các hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động bảo vệ môi trường (Điều 6)
- 9 Những điểm mới đột phá của Luật Bảo vệ môi trường 2020:
- 9.1 Lần đầu tiên, cộng đồng dân cư được quy định là chủ thể trong bảo vệ môi trường; tăng cường công bố thông tin, tham vấn và phát huy vai trò của cộng đồng trong các hoạt động bảo vệ môi trường
- 9.1.1 Toàn bộ nội dung của Luật là bảo vệ sức khỏe nhân dân và bảo đảm mọi người được sống trong môi trường trong lành.
- 9.1.2 – Vấn đề công bố thông tin đã được quy định xuyên suốt và thống nhất trong Luật Bảo vệ môi trường 2020 theo các nội dung cụ thể về bảo vệ môi trường, kèm theo một khoản riêng quy định về việc cung cấp và công bố thông tin về môi trường.
- 9.1.3 Trách nhiệm của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và chủ dự án, cơ sở sản xuất kinh doanh, khu sản xuất kinh doanh tập trung, cụm công nghiệp trong việc cung cấp, công khai thông tin môi trường.
- 9.1.4 – Lần đầu tiên, trách nhiệm tham vấn cộng đồng dân cư của chủ dự án được quy định ngay từ khi lập báo cáo ĐTM.
- 9.2 Thay đổi phương thức quản lý môi trường đối với dự án đầu tư theo các tiêu chí môi trường; kiểm soát chặt chẽ dự án có nguy cơ tác động xấu đến môi trường mức độ cao, thực hiện hậu kiểm đối với các dự án có công nghệ tiên tiến và thân thiện môi trường; cắt giảm thủ tục hành chính
- 9.2.1 – Lần đầu tiên, Luật tiếp cận phương pháp quản lý môi trường xuyên suốt, khoa học đối với dự án đầu tư dựa trên các tiêu chí môi trường; sàng lọc, không khuyến khích các dự án không tuân theo quy luật tự nhiên, chiếm dụng lớn diện tích rừng, đất lúa, tác động đến các di sản thiên nhiên, khu bảo tồn;
- 9.2.2 áp dụng công cụ quản lý môi trường phù hợp theo từng giai đoạn từ việc xây dựng chiến lược, quy hoạch đến thực hiện dự án đầu tư.
- 9.2.3 Bên cạnh đó, Luật cũng cải cách mạnh mẽ TTHC thông qua việc tích hợp toàn bộ các giấy phép, giấy xác nhận về môi trường vào chung 01 GPMT và bãi bỏ các giấy phép có liên quan;
- 9.3 – Về ý kiến cho rằng số liệu quan trắc chất thải tự động, liên tục không đáng tin cậy do không có phương pháp tiêu chuẩn:
- 9.4 Đã định chế nội dung sức khỏe môi trường; bổ sung nhiều giải pháp bảo vệ các thành phần môi trường, đặc biệt là môi trường không khí, môi trường nước
- 9.5 Thúc đẩy phân loại rác thải tại nguồn; định hướng cách thức quản lý, ứng xử với chất thải, góp phần thúc đẩy kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam
- 9.6 Lần đầu tiên chế định về thẩm quyền quản lý nhà nước dựa trên nguyên tắc quản lý tổng hợp, thống nhất, một việc chỉ giao cho một cơ quan chủ trì thực hiện; phân cấp triệt để cho địa phương
- 9.7 Lần đầu chế định cụ thể về kiểm toán môi trường nhằm tăng cường năng lực, hiệu quả quản lý môi trường của doanh nghiệp
- 9.8 Cụ thể hóa các quy định về ứng phó BĐKH, thúc đẩy phát triển thị trường các-bon trong nước
- 9.9 Hoàn thiện hành lang pháp lý bảo vệ di sản thiên nhiên phù hợp với pháp luật quốc tế về di sản thế giới, đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế
- 9.9.1 Các quy định về đối tượng là di sản thiên nhiên của Việt Nam đang được quy định tản mạn trong một số pháp luật chuyên ngành như Luật Đa dạng sinh học (khu bảo tồn đất ngập nước),
- 9.9.2 Để khắc phục các bất cập này, Luật BVMT 2020 đã đưa ra các quy định về tiêu chí xác lập di sản thiên nhiên dựa trên cơ sở các tiêu chí của quốc tế và thực tiễn điều kiện Việt Nam hiện nay;
- 9.10 Tạo lập chính sách phát triển các mô hình tăng trưởng kinh tế bền vững, thúc đẩy kinh tế tuần hoàn, phục hồi và phát triển nguồn vốn tự nhiên
- 9.10.1 Ở nước ta, nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về thúc đẩy tăng trưởng xanh, phát triển nền kinh tế tuần hoàn, hướng tới phát triển bền vững cũng đã được ban hành nhưng còn thiếu cơ sở pháp lý tạo nền tảng cho thúc đẩy các mô hình kinh tế này.
- 9.10.2 Để giải quyết vấn các vấn đề này, đồng thời tạo động lực phát triển bền vững và nâng cao chất lượng tăng trưởng và sự thịnh vượng quốc gia, Luật BVMT 2020 đã bổ sung một chương về các công cụ kinh tế và nguồn lực cho BVMT.
- 9.1 Lần đầu tiên, cộng đồng dân cư được quy định là chủ thể trong bảo vệ môi trường; tăng cường công bố thông tin, tham vấn và phát huy vai trò của cộng đồng trong các hoạt động bảo vệ môi trường
- 10 Câu hỏi thường gặp:
- 10.1 Xin hỏi những hành vi nào bị nghiêm cấm trong hoạt động bảo vệ môi trường?
- 10.1.1 – Nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, quá cảnh chất thải từ nước ngoài dưới mọi hình thức.
- 10.1.2 – Sản xuất, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất và tiêu thụ chất làm suy giảm tầng ô-dôn theo quy định của điều ước quốc tế về các chất làm suy giảm tầng ô-dôn mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
- 10.2 Nội dung bảo vệ môi trường nước mặt bao gồm những nội dung gì?
- 10.3 Bộ Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm gì trong bảo vệ môi trường nước mặt?
- 10.4 Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm gì trong bảo vệ môi trường nước mặt?
- 10.5 Kế hoạch quản lý chất lượng môi trường nước mặt phải có những nội dung chính nào?
- 10.6 Thời kỳ lập Kế hoạch quản lý chất lượng môi trường nước mặt là bao lâu?
- 10.7 Luật Bảo vệ môi trường quy định thế nào về bảo vệ môi trường nước dưới đất?
- 10.8 Luật Bảo vệ môi trường quy định thế nào về việc bảo vệ môi trường nước biển?
- 10.9 Thời hạn của Kế hoạch quốc gia về quản lý chất lượng môi trường không khí là bao lâu?
- 10.10 Nội dung chính của Kế hoạch quốc gia về quản lý chất lượng môi trường không khí bao gồm những nội dung gì?
- 10.1 Xin hỏi những hành vi nào bị nghiêm cấm trong hoạt động bảo vệ môi trường?
Bảo vệ môi trường là gì?
Bảo vệ môi trường là những hoạt động được diễn ra nhằm mục đích giữ gìn sự trong lành, sạch đẹp của môi trường; giúp cân bằng hệ sinh thái và cải thiện môi trường sống của các sinh vật nói chung và con người nói riêng qua những việc làm để ngăn chặn, phòng ngừa, khắc phục các hậu quả xấu do thiên tai và con người gây ra ảnh hưởng đến môi trường.
Như vậy, có thể khẳng định: Bảo vệ môi trường là bảo vệ cuộc sống của chính chúng ta.
Luật bảo vệ môi trường là gì ?
Luật bảo vệ môi trường là văn bản nháp luật chứa đựng có hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát Ì sinh giữa các chủ thể tham gia sử dụng hoặc tác động đến các yếu tố của môi trường.
Tìm hiểu quy định của luật bảo vệ môi trường
Luật Bảo vệ môi trường được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa IX, kỳ họp thứ tư thông qua ngày 27 tháng 12 năm 1993 và được Chủ tịch nước ban hành Lệnh số 29/L-CTN ngày 10 tháng 01 năm 1994.
Đối tượng điều chỉnh của Luật Bảo vệ môi trường là các mối quan hệ phát sinh giữa các chủ thể tham gia sử dụng hoặc tác động đến các yếu tố môi trường, bao gồm các loại quan hệ sau:
1) Các mối quan hệ phát sinh trong quá trình quản lý nhà nước về môi trường bao gồm: các mối quan hệ phát sinh từ đánh giá tác động môi trường; từ thanh tra việc thực hiện luật pháp, chính sách về môi trường đến các mối quan hệ phát sinh trong việc xử lý vi phạm pháp luật về môi trường;
2) Quan hệ phát sinh giữa cá nhân, tổ chức về việc bồi thường thiệt hại giữa các bên do hành vi gây ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường, sự cố môi trường; quan hệ phát sinh trong quá trình hợp tác khắc phục hậu quả do ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường, sự cố môi trường;
các quan hệ phát sinh trong việc giải quyết các tranh chấp về môi trường; mối quan hệ phát sinh trong việc phối hợp đầu tư các công trình bảo vệ môi trường.
Về phạm vi điều chỉnh, Luật Bảo vệ môi trường điều chỉnh các hành vi của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước; các tổ chức quốc tế; tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia sử dụng hoặc tác động đến các yếu tố môi trường trên toàn lãnh thổ, lãnh hải và thềm lục địa Việt Nam.
Trong điều kiện trước đây, một phần do chiến tranh, vấn đề môi trường chưa thực sự được quan tâm, còn thiếu các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
Trong công cuộc đổi mới ngày nay, cùng với việc mở rộng quan hệ hợp tác nhiều mặt, nhất là hợp tác phát triển kinh tế với các nước trong khu vực và quốc tế, mặc dù nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao, nhưng đất nước cũng phải đối mặt với một thực trạng đáng lo, đó là môi trường ngày càng bị hủy hoại.
Hiện tượng suy thoái trầm trọng. Công tác quản lý nhà nước về môi trường chưa được quan tâm đúng mức, thiếu kinh nghiệm.
Trước thực trạng đó, Nhà nước đã ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật nhằm giải quyết những vấn đề cấp bách về bảo vệ một số thành phần môi trường hoặc điều chỉnh một số hoạt động ảnh hưởng đến môi trường như: Pháp lệnh bảo vệ nguồn lợi thủy sản năm 1989, Luật bảo vệ và phát triển rừng năm Năm 1991; Pháp lệnh Bảo vệ và Kiểm dịch thực vật 1993.
Trước tình hình đó, Luật bảo vệ môi trường đã được thông qua, trực tiếp góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về môi trường, xác định trách nhiệm của cá nhân, tổ chức, cơ quan nhà nước trong việc bảo vệ môi trường.
Về cơ cấu và nội dung cơ bản, Luật có lời nói đầu và 7 chương với 55 điều. Mỗi chương đều có tên gọi phản ánh nội dung chính của chương. Lời nói đầu xác định tầm quan trọng đặc biệt của môi trường và mục đích của việc ban hành Luật.
Chương l – Những quy định chung, quy định khái niệm môi trường, bảo vệ môi trường; quy định chung về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân trong nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài trong việc bảo vệ môi trường.
Chương II – Phòng, chống suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường.
Chương III – Khắc phục suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường, quy định trách nhiệm của các cơ quan quản lí nhà nước và các tổ chức, cá nhân trong việc áp dụng các biện pháp để khắc phục suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường.
Chương IV – Quản lí nhà nước về bảo vệ môi trường, hệ thống cơ quan quản lí nhà nước về môi trường, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lí nhà nước trong việc bảo vệ môi trường và quyền khiếu nại, tố cáo của các tổ chức, cá nhân đối với các quyết định xử lí của cơ quan thanh tra về môi trường và đối với các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
Chương V – Quan hệ quốc tế về bảo vệ môi trường, quy định nguyên tắc thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã kí kết hoặc tham gia, chính sách của Nhà nước Việt Nam đối với các nước, các tổ chức quốc tế, các tổ chức, cá nhân nước ngoài trong công tác bảo vệ môi trường.
Chương VI – Khen thưởng và xử lí vi phạm.
Chương VỊI – Điều khoản thi hành.
Qua 12 năm thực hiện, Luật bảo vệ môi trường năm 1993 đã góp phần quan trọng trong việc bảo vệ môi trường ở Việt Nam.
Tuy nhiên, trước yêu cầu của thực tiễn hiện nay, Luật bảo vệ môi trường năm 1993 đã có những hạn chế của nó. Vì vậy, Luật bảo vệ môi trường năm 2005 đã được Quốc hội khoá XI thông qua ngày 29.11.2005.
Luật này quy định về hoạt động bảo vệ môi trường; chính sách, biện pháp và nguồn lực để bảo vệ môi trường; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong bảo vệ môi trường.
Luật được áp dụng đối với cơ quan nhà nước, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong nước; người Việt Nam định cư ở nước ngoài; tổ chức, cá nhân nước ngoài có hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam.
Luật gồm 15 chương với 136 Điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 01.07.2006.
Qua nhiều năm, thì tình hình thực tế ngày càng biến động, thay đổi. Do đó, Luật Bảo vệ môi trường (viết tắt là Luật BVMT) được Quốc hội khóa XIV kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 17/11/2020, Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2022.
Vai trò của pháp luật trong bảo vệ môi trường
Vai trò của pháp luật trong bảo vệ môi trường có một vị trí đặc biệt quan trọng. Môi trường bị phá hủy chủ yếu là do sự hủy diệt của con người.
Con người trong quá trình khai thác các yếu tố của môi trường đã mất cân bằng sinh thái và gây ô nhiễm.
Do đó, nếu bạn muốn bảo vệ môi trường, trước tiên bạn phải ảnh hưởng đến mọi người. Luật pháp như một hệ thống các quy tắc điều chỉnh hành vi của con người sẽ có tác động lớn đến việc bảo vệ môi trường.
Ý nghĩa của pháp luật trong bảo vệ môi trường được phản ánh trong các khía cạnh sau:
– Pháp luật quy định các quy tắc ứng xử mà con người phải tuân theo khi khai thác, sử dụng các yếu tố của môi trường.
Môi trường vừa là điều kiện sống vừa là đối tượng tác động hàng ngày của con người. Tác động của con người làm thay đổi đáng kể tình trạng hiện tại của môi trường theo hướng suy thoái.
Con người có nguy cơ bị thiên nhiên trả thù. Vì lý do đó, khai thác theo định hướng, có tính đến sự cân bằng của môi trường, có ảnh hưởng lớn đến việc bảo vệ môi trường.
Pháp luật như một công cụ để điều chỉnh hành vi của các thành viên trong xã hội có tác dụng rất lớn trong việc định hướng quá trình khai thác và sử dụng môi trường.
Người dân sử dụng và khai thác môi trường theo các tiêu chuẩn nhất định sẽ hạn chế tác hại và ngăn ngừa suy thoái.
– Luật quy định xử phạt hình sự, kinh tế, hành chính để buộc cá nhân, tổ chức phải chấp hành đầy đủ các yêu cầu của pháp luật trong việc khai thác, sử dụng các yếu tố môi trường. Việc đưa ra các tiêu chuẩn để hướng dẫn hành vi khai thác và sử dụng môi trường có ý nghĩa rất lớn.
Tuy nhiên, không phải trong mọi tình huống, các tiêu chuẩn này đều được tự nguyện tuân theo và thực thi. Vi phạm xảy ra thường xuyên hơn đối với các yếu tố môi trường, nơi có mâu thuẫn giữa nhu cầu cấp bách của cuộc sống và yêu cầu bảo vệ môi trường.
Chẳng hạn, quyết định đóng cửa rừng theo quyết định của Chính phủ là quyết định đúng đắn và có ý nghĩa rất lớn đối với việc bảo vệ rừng đang bị suy thoái nghiêm trọng.
Bằng các chế tài hình sự, hành chính, dân sự, pháp luật tác động tới những hành vi vi phạm. Các chế tài này hoặc cách ly những kẻ vi phạm nguy hiểm khỏi xã hội hoặc áp dụng những hậu quả yật chất, tinh thần đối với họ. Các chế tài hình sự, hành chính, dân sự được sử dụng trong lĩnh vực bảo vệ môi trường vừa có tác dụng ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật môi trường vừa có tác dụng giáo dục công dân tôn ttọng pháp luật bảo vệ môi trường.
Tuy nhiên, việc đóng cửa rừng và hạn chế xuất khẩu gỗ đã ảnh hưởng đến việc làm và thu nhập của một bộ phận dân cư luôn sống bằng cách khai thác gỗ và buôn bán gỗ.
Hơn nữa, việc đóng cửa rừng chắc chắn sẽ đẩy giá gỗ lên cao, vì vậy việc buôn bán gỗ, đặc biệt là buôn lậu, mang lại lợi nhuận lớn.
Pháp luật quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức bảo vệ môi trường. Bảo vệ môi trường là một công việc rất khó khăn và phức tạp.
Nhiều yếu tố của môi trường có phạm vi lớn và cấu trúc phức tạp, vì vậy việc bảo vệ chúng đòi hỏi một hệ thống các tổ chức phù hợp.
Luật có tác dụng rất lớn trong việc tạo ra một cơ chế hoạt động hiệu quả cho các tổ chức bảo vệ môi trường.
Cụ thể, thông qua pháp luật, Nhà nước quy định chức năng, quyền hạn và nhiệm vụ của các tổ chức trong bảo vệ môi trường.
Ví dụ, Nhà nước theo Luật Bảo vệ và Phát triển rừng quy định quyền của kiểm lâm trong bảo vệ rừng. Theo đó, kiểm lâm, chủ rừng, kiểm lâm, kiểm lâm, v.v. có thẩm quyền xử phạt hành chính đối với các hành vi phá rừng – một yếu tố rất quan trọng của môi trường.
– Vai trò to lớn của pháp luật trong bảo vệ môi trường được thể hiện qua việc ban hành các tiêu chuẩn môi trường.
Ví dụ: tiêu chuẩn tiếng ồn, tiêu chuẩn nước sạch, tiêu chuẩn không khí. Các tiêu chuẩn này về cơ bản là các tiêu chuẩn kỹ thuật.
Tuy nhiên, do được ban hành bởi các văn bản quy phạm pháp luật nên chúng trở thành tiêu chuẩn pháp lý, nghĩa là các tiêu chuẩn mà cá nhân, tổ chức xã hội phải tuân thủ nghiêm ngặt khi khai thác, sử dụng các tài nguyên này. các yếu tố khác nhau của môi trường.
Tiêu chuẩn môi trường là cơ sở pháp lý để xác định vi phạm pháp luật môi trường. Chúng tạo cơ sở cho việc truy tố các vi phạm pháp luật môi trường.
– Một trong những biểu hiện rõ nét về vai trò bảo vệ môi trường của pháp luật là việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến việc bảo vệ môi trường.
Trong quá trình khai thác các yếu tố khác nhau của môi trường, giữa các tổ chức, cá nhân có thể xảy ra những ưanh chấp.
Tranh chấp môi trường có thể xảy ra giữa cá nhân với nhau song cũng có khi xảy ra giữa cá nhân với các doanh nghiệp hoặc các cơ quan nhà nước. Tranh chấp về môi trường là tranh chấp liên quan tới việc khai thác, sử dụng các yếu tố cùa môi trường.
Ý nghĩa của việc bảo vệ môi trường
Bảo vệ môi trường là bảo vệ cuộc sống của chính chúng ta, nếu môi trường bị ô nhiễm hoặc bị phá hủy, chúng ta sẽ không còn tồn tại.
Nếu môi trường trong lành, sức khỏe và cuộc sống của chúng ta sẽ lâu dài và bền vững.
Môi trường xung quanh chúng ta mang lại cho chúng ta sự sống, một điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của chúng ta. Môi trường đang trong tình trạng ô nhiễm do sự vô thức của chính chúng ta.
Một thực tế đang diễn ra là, khi cuộc sống ngày càng trở nên hiện đại và phát triển hơn, đời sống vật chất của con người ít nhiều được cải thiện, nhưng tình hình ô nhiễm môi trường có những diễn biến phức tạp và đi kèm với các vấn đề khác. bị bệnh nan y.
Ngoài những căn bệnh nan y, chúng ta không thể không nhắc đến những dịch bệnh đang bùng phát mạnh mẽ trong thời gian gần đây như dịch tả; sốt xuất huyết; Bệnh tay chân miệng; bệnh lở mồm long móng.
Bảo vệ môi trường là một công việc cấp bách và cần thiết hơn bao giờ hết, và là nghĩa vụ không thuộc về ai.
Vậy cần làm gì để góp phần bảo vệ môi trường mà chúng ta đang học tập và sinh sống: chúng ta cần xây dựng một ngôi trường xanh-sạch-đẹp.
Để bảo vệ được môi trường sống trước tiên chúng ta cần biết hành động thiết thực sau:
– Không vứt rác bừa bãi. Phải thu gom, đổ rác đúng nơi quy định.
– Không đổ nước thải ra đường, phố, các nơi công cộng. Mỗi gia đình phải thu gom nước thải vào hệ thống bể tự hoại, hầm chứa hoặc cho nước thải vào hệ thống thoát nước công cộng.
– Sử dụng hố xí hợp vệ sinh. Không phóng uế bừa bãi.
– Trồng cây xanh góm phần giảm ô nhiễm môi trường và tạo cảnh quan.
– Không hút thuốc là nơi công cộng.Tự giác chấp hành các quy định của các cấp chính quyền địa phương về giữ gìn vệ sinh, xây dựng gia đình văn hoá.
– Ðóng góp đầy đủ lệ phí thu dọn vệ sinh, Vận động mọi người cùng tham gia các công việc trên.
Trách nhiệm bảo vệ môi trường
Chúng ta đều biết môi trường có ý nghĩa vô cùng quan trọng với đời sống con người. Nhưng hiện trạng cho thấy ngày nay đang đánh một hồi chuông cảnh báo về vấn đề ô nhiễm môi trường.
Bạn đã nhận thấy rằng khí hậu ngày càng trở nên khắc nghiệt và khó dự đoán, bão thất thường, lũ lụt, suy thoái đất và nước, cạn kiệt tài nguyên rừng và ô nhiễm môi trường xảy ra trên quy mô lớn. ..
Đó là những vấn đề môi trường mà toàn nhân loại đã và đang phải đối mặt. Con người có quá nhiều tác động đến môi trường, khai thác đến mức cạn kiệt tài nguyên, không có kế hoạch.
Mọi người quan tâm nhiều hơn đến vấn đề lợi nhuận và doanh thu để đảm bảo cuộc sống hàng ngày của họ mà không vô tình hoặc cố ý xâm phạm môi trường.
Việc chặt cây, rừng bừa bãi đã khiến nhiều đồi núi cằn cỗi, rừng đầu nguồn bị tàn phá nặng nề, gây ngập lụt lớn.
Thiên nhiên đã ban tặng cho chúng ta nhiều thứ, nhưng chúng ta không biết cách bảo tồn và bảo vệ nó.
Giờ đây, khi môi trường dần xuống cấp, có nhiều thiên tai và “căn bệnh lạ”, con người nhận ra tầm quan trọng của môi trường.
Vì thế chúng ta phải bảo vệ môi trường, bảo vệ ngôi nhà của chúng ta. Không có môi trường ta sẽ không có chốn ăn chốn ở, không thể có sự sống nếu thiếu môi trường.
Môi trường tốt, đời sống chúng ta cũng đẹp. Chỉ khi môi trường tồn tại ta mới tồn tại. Bởi thế bảo vệ môi trường là bảo vệ chính chúng ta.
Ngày nay, đứng trước nguy cơ ô nhiễm môi trường, con người đã và đang có những biện pháp tích cực khắc phục hậu quả đã gây ra và tránh những tác động xấu sẽ đến.
Chính phủ đã ban hành hàng loạt các văn bản về bảo vệ môi trường nhằm xử lý, rác thải; răn đe những tổ chức, cá nhân có hành vi làm tổn hại đến môi trường. Chúng ta có ngày “Giờ Trái đất 24-3”, có những chương trình chung tay góp sức bảo vệ trái đất xanh sạch đẹp, có những hoạt động nhặt rác, thu gom rác trên biển, trong rừng,…
Nhiều đất nước đề ra những khoản luật cấm vứt rác, cấm hút thuốc,… để bảo vệ môi trường. Nhiều nước khuyến khích người dân đi xe đạp, đi bộ giảm tải khói bụi từ các loại xe sử dụng xăng. Toàn thế giới đang chung tay giữ gìn một thế giới xanh đẹp, không có ô nhiễm môi trường.
Những quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường
Luật Bảo vệ môi trường (viết tắt là Luật BVMT) được Quốc hội khóa XIV kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 17/11/2020, Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2022. Theo đó, một số quy định của Luật Bảo vệ môi trường như sau:
Nguyên tắc bảo vệ môi trường (căn cứ tại Điều 4)
Bảo vệ môi trường phải tuân theo các nguyên tắc sau:
– Bảo vệ môi trường là quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của mọi cơ quan, tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình và cá nhân.
– Bảo vệ môi trường là điều kiện, nền tảng, yếu tố trung tâm, tiên quyết cho phát triển kinh tế – xã hội bền vững. Hoạt động bảo vệ môi trường phải gắn kết với phát triển kinh tế, quản lý tài nguyên và được xem xét, đánh giá trong quá trình thực hiện các hoạt động phát triển.
– Bảo vệ môi trường gắn kết hài hòa với an sinh xã hội, quyền trẻ em, bình đẳng giới, bảo đảm quyền mọi người được sống trong môi trường trong lành.
– Hoạt động bảo vệ môi trường phải được tiến hành thường xuyên, công khai, minh bạch; ưu tiên dự báo, phòng ngừa ô nhiễm, sự cố, suy thoái môi trường, quản lý rủi ro về môi trường, giảm thiểu phát sinh, chất thải, tăng cường tái sử dụng, tái chế chất thải để khai thác giá trị tài nguyên của chất thải.
– Bảo vệ môi trường phải phù hợp với quy luật, đặc điểm tự nhiên, văn hóa, lịch sử, cơ chế thị trường, trình độ phát triển kinh tế – xã hội; thúc đẩy phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
– Cơ quan, tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình và cá nhân được hưởng lợi từ môi trường có nghĩa vụ đóng góp tài chính cho hoạt động bảo vệ môi trường; gây ô nhiễm, sự cố và suy thoái môi trường phải chi trả, bồi thường thiệt hại, khắc phục, xử lý và chịu trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật.
– Hoạt động bảo vệ môi trường bảo đảm không gây phương hại chủ quyền, an ninh và lợi ích quốc gia, gắn liền với bảo vệ môi trường khu vực và toàn cầu.
Chính sách của Nhà nước về bảo vệ môi trường (căn cứ Điều 5)
- Tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan, tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình và cá nhân tham gia thực hiện, kiểm tra, giám sát hoạt động bảo vệ môi trường.
- Tuyên truyền, giáo dục kết hợp với biện pháp hành chính, kinh tế và biện pháp khác để tăng cường việc tuân thủ pháp luật về bảo vệ môi trường, xây dựng văn hóa bảo vệ môi trường.
- Chú trọng bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ môi trường di sản thiên nhiên; khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên; phát triển năng lượng sạch và năng lượng tái tạo; phát triển hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường.
- Ưu tiên xử lý ô nhiễm môi trường, phục hồi hệ sinh thái tự nhiên bị suy thoái, chú trọng bảo vệ môi trường khu dân cư.
Đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư cho bảo vệ môi trường; bố trí khoản chi riêng cho bảo vệ môi trường trong ngân sách nhà nước với tỷ lệ tăng dần theo khả năng của ngân sách nhà nước và yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ môi trường; ưu tiên nguồn kinh phí cho các nhiệm vụ trọng điểm về bảo vệ môi trường.
- Bảo đảm quyền lợi của tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình và cá nhân đóng góp cho hoạt động bảo vệ môi trường; ưu đãi, hỗ trợ hoạt động bảo vệ môi trường; thúc đẩy sản phẩm, dịch vụ thân thiện môi trường.
- Tăng cường nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ xử lý ô nhiễm, tái chế, xử lý chất thải; ưu tiên chuyển giao và áp dụng công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, công nghệ thân thiện môi trường, kỹ thuật hiện có tốt nhất; tăng cường đào tạo nguồn nhân lực về bảo vệ môi trường.
- Tôn vinh, khen thưởng cơ quan, tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình và cá nhân có đóng góp tích cực trong hoạt động bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật.
Mở rộng, tăng cường hội nhập, hợp tác quốc tế, và thực hiện cam kết quốc tế về bảo vệ môi trường.
- Thực hiện sàng lọc dự án đầu tư theo tiêu chí về môi trường; áp dụng công cụ quản lý môi trường phù hợp theo từng giai đoạn của chiến lược, quy hoạch, chương trình và dự án đầu tư.
- Lồng ghép, thúc đẩy các mô hình kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh trong xây dựng và thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, đề án, dự án phát triển kinh tế – xã hội.
Các hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động bảo vệ môi trường (Điều 6)
Trong hoạt động bảo vệ môi trường, nghiêm cấm những hành vi sau:
– Vận chuyển, chôn, lấp, đổ, thải, đốt chất thải rắn, chất thải nguy hại không đúng quy trình kỹ thuật, quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường.
– Xả nước thải, xả khí thải chưa được xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường ra môi trường.
– Phát tán, thải ra môi trường chất độc hại, vi rút độc hại có khả năng lây nhiễm cho con người, động vật, vi sinh vật chưa được kiểm định, xác súc vật chết do dịch bệnh và tác nhân độc hại khác đối với sức khỏe con người, sinh vật và tự nhiên.
– Gây tiếng ồn, độ rung vượt mức cho phép theo quy chuẩn kỹ thuật môi trường; xả thải khói, bụi, khí có mùi độc hại vào không khí.
(5) Thực hiện dự án đầu tư hoặc xả thải khi chưa đủ điều kiện theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường.
– Nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, quá cảnh chất thải từ nước ngoài dưới mọi hình thức.
– Nhập khẩu trái phép phương tiện, máy móc, thiết bị đã qua sử dụng để phá dỡ, tái chế.
– Không thực hiện công trình, biện pháp, hoạt động phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố môi trường theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường và quy định khác của pháp luật có liên quan.
– Che giấu, hành vi gây ô nhiễm môi trường, cản trở, làm sai lệch, thông tin, gian dối trong hoạt động bảo vệ môi trường dẫn đến hậu quả xấu đối với môi trường.
– Sản xuất, kinh doanh sản phẩm gây nguy hại cho sức khỏe con người, sinh vật và tự nhiên; sản xuất, sử dụng nguyên liệu, vật liệu xây dựng chứa yếu tố độc hại vượt mức cho phép theo quy chuẩn kỹ thuật môi trường.
– Sản xuất, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất và tiêu thụ chất làm suy giảm tầng ô-dôn theo quy định của điều ước quốc tế về các chất làm suy giảm tầng ôdôn mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
– Phá hoại, xâm chiếm trái phép di sản thiên nhiên.
– Phá hoại, xâm chiếm công trình, thiết bị, phương tiện phục vụ hoạt động bảo vệ môi trường.
– Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm trái quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường.
Những điểm mới đột phá của Luật Bảo vệ môi trường 2020:
Luật Bảo vệ môi trường 2020 đồng bộ các công cụ quản lý môi trường theo từng giai đoạn của dự án, bắt từ khâu xem xét chủ trương đầu tư, thẩm định dự án, thực hiện dự án cho đến khi dự án đi vào vận hành chính thức và kết thúc dự án, bao gồm: chiến lược BVMT quốc gia, quy hoạch BVMT, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá sơ bộ tác động môi trường, đánh giá tác động môi trường (ĐTM), giấy phép môi trường (GPMT) và đăng ký môi trường.
Lần đầu tiên, Luật thiết kế khung chính sách hướng đến việc hình thành đạo luật về BVMT có tính tổng thể, toàn diện và hài hòa với hệ thống pháp luật về kinh tế-xã hội; cải cách mạnh mẽ, cắt giảm trên 40% thủ tục hành chính (TTHC), giảm thời gian thực hiện các TTHC từ 20-85 ngày, góp phần giảm chi phí tuân thủ của doanh nghiệp.
So với Luật BVMT năm 2014, Luật BVMT 2020 có những điểm mới mang tính đột phá chính như sau:
Lần đầu tiên, cộng đồng dân cư được quy định là chủ thể trong bảo vệ môi trường; tăng cường công bố thông tin, tham vấn và phát huy vai trò của cộng đồng trong các hoạt động bảo vệ môi trường
– Thời gian qua, cộng đồng dân cư ngày càng thể hiện vai trò quan trọng trong công tác bảo vệ môi trường, nổi bật nhất là việc hình thành các mô hình cộng đồng tham gia bảo vệ môi trường có hiệu quả. Sự tham gia của cộng đồng trong việc thu thập và cung cấp thông tin về bảo vệ môi trường; tham gia đánh giá kết quả bảo vệ môi trường của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 chưa quy định cộng đồng là chủ thể trong công tác bảo vệ môi trường nên vai trò quan trọng của cộng đồng trong công tác bảo vệ môi trường chưa được phát huy và phát huy.
Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã bổ sung “cộng đồng dân cư” vào phạm vi điều chỉnh và áp dụng nhằm khẳng định vị trí, vai trò của nhóm đối tượng quan trọng này trong công tác bảo vệ môi trường cũng như hiện thực hóa một trong những mục tiêu.
Toàn bộ nội dung của Luật là bảo vệ sức khỏe nhân dân và bảo đảm mọi người được sống trong môi trường trong lành.
Để tạo điều kiện cho cộng đồng phát huy vai trò của mình trong bảo vệ môi trường, Luật đã bổ sung quy định về việc thiết lập hệ thống trực tuyến để tiếp nhận, xử lý, phản hồi các khiếu nại, kiến nghị, tham vấn của tổ chức, cá nhân và cộng đồng về bảo vệ môi trường, qua đó giúp cộng đồng tham gia giám sát các hoạt động bảo vệ môi trường thông qua công nghệ thông tin, tương tác với các ứng dụng thông minh trên điện thoại di động.
– Vấn đề công bố thông tin đã được quy định xuyên suốt và thống nhất trong Luật Bảo vệ môi trường 2020 theo các nội dung cụ thể về bảo vệ môi trường, kèm theo một khoản riêng quy định về việc cung cấp và công bố thông tin về môi trường.
Cụ thể, Luật đã bổ sung nguyên tắc hoạt động bảo vệ môi trường phải công khai, minh bạch; quy định rõ trách nhiệm công khai thông tin liên quan đến chất lượng môi trường không khí, chất lượng môi trường đất, chất thải nguy hại, kết quả quan trắc chất thải;
Chính sách của Nhà nước là khuyến khích các tổ chức, cá nhân đóng góp, cung cấp thông tin về môi trường;
Trách nhiệm của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và chủ dự án, cơ sở sản xuất kinh doanh, khu sản xuất kinh doanh tập trung, cụm công nghiệp trong việc cung cấp, công khai thông tin môi trường.
– Lần đầu tiên công bố danh sách Hội đồng thẩm định báo cáo ĐTM, có Điều khoản quy định về công bố thông tin và sự tham gia của cộng đồng trong phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường.
Việc công bố, công khai quyết định phê duyệt kết quả thẩm định báo cáo ĐTM của cơ quan thẩm định, công khai báo cáo ĐTM sau khi chủ dự án phê duyệt kết quả thẩm định, nội dung báo cáo đề nghị ban hành báo cáo môi trường. cho phép làm gì. , trừ những thông tin liên quan đến bí mật nhà nước, bí mật của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật để lấy ý kiến các bên liên quan cũng đã được quy định trong Luật.
Hình thức công khai được thực hiện thông qua cổng thông tin điện tử của cơ quan, tổ chức, trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc các hình thức khác, đảm bảo thuận tiện cho các đối tượng liên quan tiếp nhận thông tin; giao Chính phủ quy định chi tiết nội dung và quản lý thông tin về môi trường; trình tự, thủ tục, thời gian và hình thức cung cấp, công khai thông tin môi trường.
– Lần đầu tiên, trách nhiệm tham vấn cộng đồng dân cư của chủ dự án được quy định ngay từ khi lập báo cáo ĐTM.
Trong đó quy định rõ trách nhiệm tham vấn, đối tượng tham vấn, nội dung chính, hình thức tham vấn trong quá trình thực hiện ĐTM; Kết quả tham vấn cộng đồng địa phương, các cơ quan, tổ chức có liên quan là thông tin quan trọng để chủ dự án nghiên cứu, đưa ra các giải pháp giảm thiểu tác động của dự án đến môi trường và hoàn thiện báo cáo ĐTM của dự án. sự phán xét.
Trong quá trình lập hồ sơ xin giấy phép môi trường, Luật cũng quy định trách nhiệm của chủ dự án trong việc tham khảo ý kiến của các bên liên quan.
Thay đổi phương thức quản lý môi trường đối với dự án đầu tư theo các tiêu chí môi trường; kiểm soát chặt chẽ dự án có nguy cơ tác động xấu đến môi trường mức độ cao, thực hiện hậu kiểm đối với các dự án có công nghệ tiên tiến và thân thiện môi trường; cắt giảm thủ tục hành chính
– Luật BVMT 2020 đã thể hiện sự thay đổi mạnh mẽ trong tư duy quản lý môi trường thông qua thể chế hóa chính sách phát triển dựa trên quy luật tự nhiên, không hy sinh môi trường để đổi lấy tăng trưởng kinh tế; BVMT không chỉ là phòng ngừa, kiểm soát, xử lý chất thải; các hoạt động sản xuất, phát triển phải hài hòa với tự nhiên, khuyến khích bảo vệ và phát triển tự nhiên.
Đồng thời, Luật cũng đặt ra các tiêu chuẩn, quy chuẩn môi trường nhằm thực hiện mục tiêu bảo đảm người dân Việt Nam được hưởng chất lượng môi trường ngang bằng với các nước trên thế giới và cũng, hài hòa với quy định của quốc tế để góp phần thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam về BVMT, ứng phó với biến đổi khí hậu.
– Lần đầu tiên, Luật tiếp cận phương pháp quản lý môi trường xuyên suốt, khoa học đối với dự án đầu tư dựa trên các tiêu chí môi trường; sàng lọc, không khuyến khích các dự án không tuân theo quy luật tự nhiên, chiếm dụng lớn diện tích rừng, đất lúa, tác động đến các di sản thiên nhiên, khu bảo tồn;
áp dụng công cụ quản lý môi trường phù hợp theo từng giai đoạn từ việc xây dựng chiến lược, quy hoạch đến thực hiện dự án đầu tư.
Theo đó dự án đầu tư được phân thành 04 nhóm: có nguy cơ tác động xấu đến môi trường mức độ cao, có nguy cơ, ít có nguy cơ hoặc không có nguy cơ tác động xấu đến môi trường. Tương ứng với từng đối tượng dự án cụ thể, cơ quan quản lý nhà nước về môi trường sẽ áp dụng các cơ chế quản lý phù hợp, cụ thể là:
+ Quy định chỉ đối tượng có nguy cơ tác động xấu đến môi trường mức độ cao (Nhóm I) mới phải đánh giá sơ bộ tác động môi trường.
Quy định này nhằm khắc phục các hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành, gồm: Giảm TTHC cho nhiều nhà đầu tư, theo đó các dự án không thuộc Nhóm I sẽ không phải đánh giá sơ bộ tác động môi trường nhằm tiết kiệm được thời gian và chi phí.
+ Áp dụng đầy đủ các công cụ môi trường để quản lý, sàng lọc dự án đầu tư có nguy cơ tác động xấu đến môi trường mức độ cao (đánh giá sơ bộ tác động môi trường, ĐTM, cấp GPMT nếu phát sinh chất thải);
đối với các dự án áp dụng công nghệ tiên tiến và thân thiện môi trường được cấp GPMT ngay từ giai đoạn nghiên cứu khả thi và tổ chức hậu kiểm (thông qua thanh tra, kiểm tra) khi dự án đi vào hoạt động hoặc chỉ phải đăng ký môi trường (không phải là thủ tục hành chính, được thực hiện bằng hình thức trực tuyến, đơn giản) tại UBND cấp xã.
Bên cạnh đó, Luật cũng cải cách mạnh mẽ TTHC thông qua việc tích hợp toàn bộ các giấy phép, giấy xác nhận về môi trường vào chung 01 GPMT và bãi bỏ các giấy phép có liên quan;
+ Xác lập lại đúng vai trò hoạt động quan trắc chất thải của doanh nghiệp, Luật quy định các đối tượng xả nước thải, bụi, khí thải lớn ra môi trường phải quan trắc định kỳ;
đối tượng phải quan trắc tự động, liên tục bao gồm các cơ sở thuộc loại hình có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường với lưu lượng phát thải trung bình trở lên và cơ sở không thuộc loại hình có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường với lưu lượng phát thải lớn, các khu, cụm công nghiệp.
Đối tượng, thông số, tần suất quan trắc cụ thể sẽ do Chính phủ quy định để phù hợp với điều kiện phát triển khoa học, công nghệ và yêu cầu BVMT trong từng thời kỳ.
– Về ý kiến cho rằng số liệu quan trắc chất thải tự động, liên tục không đáng tin cậy do không có phương pháp tiêu chuẩn:
– Phương pháp tiêu chuẩn được quy định đối với hoạt động quan trắc (lấy mẫu hiện trường, bảo quản mẫu và phân tích mẫu trong phòng thí nghiệm).
Toàn bộ quá trình này đều do con người thực hiện, nên cần phải có quy trình kỹ thuật để quản lý bằng phương pháp tiêu chuẩn (hiện ở Việt Nam đang thực hiện theo các TCVN, ISO hoặc áp dụng các tiêu chuẩn của Hoa Kỳ);
– Thông tư số 24/2017/TT-BTNMT đã quy định chi tiết các yêu cầu cơ bản và đặc tính kỹ thuật, quy trình vận hành, quản lý và kiểm soát hệ thống quan trắc nước thải, khí thải tự động, liên tục.
Về bản chất, việc quan trắc tự động, liên tục là do thiết bị đo tự thực hiện, được kiểm soát thông qua các yêu cầu về đặc tính kỹ thuật của thiết bị; yêu cầu về trách nhiệm kiểm định, hiệu chuẩn định kỳ thiết bị theo pháp luật về đo lường (quá trình này đều sử dụng chất chuẩn để đánh giá độ chính xác thiết bị theo quy định) để kiểm soát chặt chẽ độ chính xác cũng như quy trình vận hành thiết bị.
Theo quy định này, doanh nghiệp có trách nhiệm phải thực hiện kiểm soát chất lượng của Hệ thống trước khi đi vào vận hành chính thức và định kỳ 01 lần/năm.
– Hiện nay, quy định về độ chính xác của giá trị đo bằng thiết bị quan trắc tự động theo Thông tư số 24/2017/TT-BTNMT đối với một số thông số quan trắc là tương đương, trong một số khoảng nồng độ còn nghiêm ngặt hơn so với yêu cầu về độ chính xác và độ nhiễu trong các phương pháp tiêu chuẩn đối với phân tích trong phòng thí nghiệm.
Ví dụ như đối với thông số COD trong nước thải: yêu cầu độ chính xác của thiết bị quan trắc tự động là dưới 5% (theo giá trị đọc); trong khi đó theo phương pháp tiêu chuẩn SMEWW 5520C:2017 – Phương pháp tiêu chuẩn xác định COD bằng chuẩn độ (của Hoa Kỳ) cho phép sai số đến 5,6%.
– Theo tiến trình phát triển khoa học kỹ thuật, đặc biệt là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, thì nhiều lĩnh vực quản lý nhà nước khác cũng đã và đang chuyển đổi dần sang sử dụng thiết bị tự động để quản lý, như ngành điện hiện nay đã chuyển từ công tơ ghi số bằng tay sang công tơ tự động tính giá điện.
Đã định chế nội dung sức khỏe môi trường; bổ sung nhiều giải pháp bảo vệ các thành phần môi trường, đặc biệt là môi trường không khí, môi trường nước
– Nội dung sức khỏe môi trường tuy chưa có quy định riêng nhưng đã được quy định trong toàn bộ Luật Bảo vệ môi trường 2020, thông qua việc bảo vệ các thành phần môi trường, từ đó bảo vệ sức khỏe người dân, đảm bảo quyền lợi của mọi người. sống trong một môi trường lành mạnh.
Luật đã bổ sung nội dung về quản lý các chất ô nhiễm có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người; quy định rõ trách nhiệm của Bộ Y tế, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong việc giám sát, kiểm soát, ngăn chặn các chất ô nhiễm ảnh hưởng đến sức khỏe con người cũng như đánh giá mối quan hệ giữa sức khỏe con người với sức khỏe con người. sức khoẻ môi trường với sức khoẻ con người, đặc biệt là mối quan hệ giữa ô nhiễm môi trường và các dịch bệnh mới.
Đặc biệt, ô nhiễm không khí và môi trường nước mặt đang là vấn đề nhức nhối trên các lưu vực sông và các đô thị lớn của Việt Nam.
– Tuy nhiên, hiện nay, khung pháp lý chưa đầy đủ để quản lý chất lượng không khí, chất lượng nước và thực hiện các biện pháp ứng phó khẩn cấp đối với ô nhiễm không khí tại các thành phố lớn.
Để giải quyết vấn đề bức xúc nêu trên, Luật quy định việc xây dựng và thực hiện phương án quản lý chất lượng môi trường nước mặt và không khí nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ các thành phần môi trường; đồng thời quy định tiêu chí, phân loại khu vực ô nhiễm môi trường đất, quy định nội dung xử lý, cải tạo, phục hồi môi trường đất.
Luật cũng quy định rõ trách nhiệm của UBND tỉnh trong việc lập, phê duyệt và tổ chức thực hiện kế hoạch quản lý chất lượng không khí; đánh giá, giám sát chất lượng không khí và công bố thông tin; c
ảnh báo cộng đồng và thực hiện các biện pháp xử lý trong trường hợp chất lượng không khí bị ô nhiễm; tổ chức thực hiện các biện pháp khẩn cấp trong trường hợp chất lượng không khí bị ô nhiễm nghiêm trọng.
Không chỉ được quy định trong các nội dung về bảo vệ chất lượng môi trường không khí, đất và nước, việc bảo vệ các thành phần môi trường này còn được thể hiện ở nhiều nội dung liên quan trong Luật như nội dung về quản lý nước thải, quản lý bụi, khí thải và các chất ô nhiễm khác như cũng như các nội dung về quản lý chất thải rắn (góp phần giảm thiểu tác động đến môi trường đất, nước và không khí), quan trắc môi trường, v.v.
Thúc đẩy phân loại rác thải tại nguồn; định hướng cách thức quản lý, ứng xử với chất thải, góp phần thúc đẩy kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam
– Hiện nay tỷ lệ chôn lấp rác thải ở Việt Nam còn cao, một trong các nguyên nhân là do rác thải chưa được phân loại dẫn đến khó khăn trong xử lý. Để khắc phục tình trạng này, Luật BVMT 2020 đã quy định việc thu phí rác thải dựa trên khối lượng hoặc thể tích thay cho việc tính bình quân theo hộ gia đình hoặc đầu người như hiện nay.
Cơ chế thu phí này sẽ góp phần thúc đẩy người dân phân loại, giảm thiểu rác thải phát sinh tại nguồn do nếu không thực hiện việc này thì chi phí xử lý rác thải phải nộp sẽ cao, thông qua quy định rác thải sinh hoạt phải được phân làm 03 loại: (i) chất thải rắn có khả năng tái sử dụng, tái chế; (ii) chất thải thực phẩm; (iii) chất thải rắn sinh hoạt khác.
Bộ TN&MT đã nghiên cứu kỹ lưỡng mô hình và kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới hiện đang thực hiện rất thành công việc thu phí xử lý rác thải qua hình thức bán bao bì, thiết bị đựng rác như Nhật Bản, Hàn Quốc và các quốc gia phát triển khác.
Để bảo đảm tính khả thi của cơ chế này, Luật đã đưa ra một số quy định như:
(i) Căn cứ điều kiện kinh tế – xã hội của địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định việc phân loại cụ thể chất thải rắn sinh hoạt với thời hạn áp dụng chậm nhất là ngày 31/12/2024;
(ii) Tại các điểm tập kết rác thải, nếu phát hiện việc phân loại không đúng quy định thì đơn vị thu gom, vận chuyển có quyền từ chối thu gom, vận chuyển và thông báo cơ quan có thẩm quyền để kiểm tra, xác định hộ gia đình, cá nhân vi phạm và xử lý nghiêm (thông qua hệ thống camera giám sát);
(iii) Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị – xã hội các cấp vận động cộng đồng dân cư, hộ gia đình, cá nhân thực hiện phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn. Cộng đồng dân cư, tổ chức chính trị – xã hội có trách nhiệm giám sát việc phân loại chất thải rắn sinh hoạt của các hộ gia đình, cá nhân;
(iv) Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm kiểm tra việc tuân thủ, xử lý hoặc chuyển cấp có thẩm quyền xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về quản lý chất thải rắn sinh hoạt theo quy định.
Ngoài ra, rác thải sinh hoạt phát sinh từ hộ gia đình, cá nhân khu vực nông thôn sau khi phân loại được khuyến khích tận dụng tối đa lượng chất thải thực phẩm làm phân bón hữu cơ, làm thức ăn chăn nuôi để phù hợp với điều kiện nông thôn tại Việt Nam.
– Nhằm hướng tới phát triển kinh tế tuần hoàn, tăng cường tái chế, tái sử dụng phế liệu trong nước để hạn chế việc nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất, ngoài quy định trách nhiệm phân loại chất thải rắn công nghiệp phát sinh từ cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ thành các loại:
(i) nhóm chất thải rắn công nghiệp thông thường được tái sử dụng, tái chế làm nguyên liệu sản xuất;
(ii) nhóm chất thải rắn đáp ứng tiêu chuẩn, quy chuẩn, hướng dẫn kỹ thuật được sử dụng trong sản xuất vật liệu xây dựng và san lấp mặt bằng;
(iii) nhóm chất thải rắn công nghiệp thông thường phải xử lý, Luật lần đầu tiên đã quy định trách nhiệm mở rộng của tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu các sản phẩm, bao bì có khả năng tái chế/khó có khả năng tái chế phải thu hồi với tỷ lệ và quy cách bắt buộc hoặc thông qua hợp đồng dịch vụ hoặc cơ chế đóng góp tài chính để hỗ trợ tái chế sản phẩm, bao bì do mình sản xuất, nhập khẩu.
Lần đầu tiên chế định về thẩm quyền quản lý nhà nước dựa trên nguyên tắc quản lý tổng hợp, thống nhất, một việc chỉ giao cho một cơ quan chủ trì thực hiện; phân cấp triệt để cho địa phương
– Việc thực hiện song song thủ tục cấp giấy phép, giấy xác nhận về môi trường (do cơ quan quản lý nhà nước về BVMT thực hiện) với cấp phép xả nước thải vào công trình thủy lợi (do cơ quan quản lý nhà nước về công trình thủy lợi thực hiện) trong thời gian qua đã bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế, cụ thể là: một đối tượng là nước thải của doanh nghiệp xả thải vào công trình thủy lợi tiếp tục phải thực hiện hai TTHC có nhiều nội dung tương đồng;
không bảo đảm nguyên tắc quản lý tổng hợp về tài nguyên nước; phân tán chức năng quản lý nhà nước đối với đối tượng là nước thải xả vào công trình thủy lợi; việc kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm hành vi xả nước thải vượt quy chuẩn kỹ thuật vào công trình thủy lợi do các cơ quan quản lý nhà nước về thủy lợi không được kịp thời, thường xuyên, hiệu quả (do pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thủy lợi không có chế tài xử lý hành vi này).
Để khắc phục vấn đề này, Luật BVMT 2020 đã bãi bỏ thủ tục cấp giấy phép xả nước thải vào nguồn nước, xả nước thải vào công trình thủy lợi mà lồng ghép nội dung này trong GPMT nhằm thống nhất trách nhiệm, thẩm quyền và nguyên tắc quản lý tổng hợp tài nguyên nước; đồng thời giảm TTHC mạnh mẽ cho doanh nghiệp.
Song song với chế định này, Luật cũng đã bổ sung trách nhiệm, thẩm quyền tham gia, phản biện và đồng thuận của cơ quan quản lý công trình thủy lợi ngay từ giai đoạn ĐTM cho đến khi cấp GPMT đối với cơ sở xả nước thải vào công trình thủy lợi nhằm tăng cường công tác phối hợp của các cơ quan.
Luật đã phân cấp mạnh mẽ cho địa phương thông qua chế định giao UBND cấp tỉnh chủ trì, phối hợp với các bộ có liên quan thẩm định báo cáo ĐTM đối với các dự án thuộc thẩm quyền phê duyệt chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư của các Bộ quản lý công trình xây dựng chuyên ngành (quy định hiện hành phân cấp các Bộ, ngành đều có thể thẩm định báo cáo ĐTM).
Đồng thời quy định các bộ có liên quan có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong quá trình thực hiện nhằm bảo đảm hiệu quả.
Quy định này sẽ bảo đảm quản lý thống nhất tại địa phương, thuận lợi cho công tác kiểm tra, giám sát, cấp phép sau này và phù hợp với xu hướng phân cấp cho địa phương như hệ thống pháp luật hiện hành.
Lần đầu chế định cụ thể về kiểm toán môi trường nhằm tăng cường năng lực, hiệu quả quản lý môi trường của doanh nghiệp
– Tiếp thu kinh nghiệm thành công của quốc tế về kiểm toán môi trường được áp dụng đối với các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất nhằm đánh giá mức độ hiệu quả sử dụng tiết kiệm tài nguyên, quản lý chất thải, kiểm soát ô nhiễm và BVMT,
Luật BVMT 2020 đã bổ sung nội dung về kiểm toán môi trường nhằm điều chỉnh hoạt động kiểm toán trong nội bộ tổ chức, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ do đơn vị tự thực hiện hoặc thông qua dịch vụ kiểm toán.
Mục đích của hoạt động này nhằm tăng cường năng lực quản lý môi trường của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp nhận biết lỗ hổng trong quản lý môi trường và có giải pháp điều chỉnh hoạt động quản lý môi trường được hiệu quả hơn.
– Luật cũng đã bổ sung quy định Kiểm toán nhà nước thực hiện kiểm toán trong lĩnh vực môi trường theo quy định của Luật Kiểm toán nhà nước và pháp luật có liên quan.
Cụ thể hóa các quy định về ứng phó BĐKH, thúc đẩy phát triển thị trường các-bon trong nước
– Chương IV Luật BVMT 2014 đã quy định về ứng phó biến đổi khí hậu (BĐKH). Tuy nhiên, một số nội dung đang chồng lấn với các điều khoản trong các chương khác của Luật (nghiên cứu khoa học, quản lý chất thải, …), chưa cụ thể nội dung thích ứng BĐKH.
Do vậy, Luật BVMT 2020 đã bổ sung các quy định về thích ứng với BĐKH, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, bảo vệ tầng ô-zôn, trong đó xác định nội dung và trách nhiệm của Bộ TN&MT, các Bộ, ngành liên quan và địa phương về thích ứng với BĐKH và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính;
bổ sung quy định về lồng ghép nội dung ứng phó với BĐKH vào hệ thống chiến lược, quy hoạch, thực hiện cam kết quốc tế về BĐKH và bảo vệ tầng ô-dôn.
– Đặc biệt, Luật đã lần đầu tiên chế định về tổ chức và phát triển thị trường các-bon như là công cụ để thúc đẩy giảm phát thải khí nhà kính trong nước, góp phần thực hiện đóng góp về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính do Việt Nam cam kết khi tham gia Thỏa thuận Paris về BĐKH.
Trong đó, quy định rõ đối tượng được phân bổ hạn ngạch phát thải khí nhà kính và có quyền trao đổi, mua bán trên thị trường các-bon trong nước;
căn cứ xác định hạn ngạch phát thải khí nhà kính; trách nhiệm của các cơ quan quản lý, tổ chức liên trong trong việc phân bổ hạn ngạch phát thải khí nhà kính;
lộ trình và thời điểm triển khai thị trường các-bon trong nước để phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội của đất nước và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Hoàn thiện hành lang pháp lý bảo vệ di sản thiên nhiên phù hợp với pháp luật quốc tế về di sản thế giới, đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế
Theo Công ước về bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới (Công ước di sản thế giới), di sản thế giới được chia làm 02 loại bao gồm: di sản thiên nhiên và di sản văn hóa có các đặc điểm, tiêu chí hoàn toàn khác nhau (tiêu chí của di sản thiên nhiên gắn với các yếu tố của tự nhiên, trong đó tiêu chí của di sản văn hóa gắn với yếu tố con người).
Việt Nam đã tham gia Công ước này từ năm 1987, tuy nhiên, hệ thống pháp luật của Việt Nam về quản lý di sản thiên nhiên chưa nội luật hóa đầy đủ và tương thích với nội dung của Công ước.
Các quy định về đối tượng là di sản thiên nhiên của Việt Nam đang được quy định tản mạn trong một số pháp luật chuyên ngành như Luật Đa dạng sinh học (khu bảo tồn đất ngập nước),
Luật Lâm nghiệp (khu bảo tồn là rừng đặc dụng), Luật Thủy sản (khu bảo tồn biển), thậm chí còn được quy định trong pháp luật về di sản văn hóa (Luật Di sản văn hóa quy định di sản văn hóa còn bao gồm cả danh lam thắng cảnh là một đối tượng của di sản thiên nhiên).
Do đó, chưa bao quát được toàn bộ các đối tượng là di sản thiên nhiên cần bảo vệ (như công viên địa chất toàn cầu, khu dự trữ sinh quyển, khu Ramsar –khu đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế, vườn di sản ASEAN), đồng thời thiếu quy định về việc xác lập cũng như chế độ quản lý các di sản thiên nhiên cấp quốc tế này.
Điều này tạo ra rào cản trong quá trình hội nhập và thực hiện Công ước di sản thế giới mà Việt Nam đã tham gia cũng như phát sinh nhiều vấn đề chưa được xử lý trong thực tiễn quản lý hiện nay.
Để khắc phục các bất cập này, Luật BVMT 2020 đã đưa ra các quy định về tiêu chí xác lập di sản thiên nhiên dựa trên cơ sở các tiêu chí của quốc tế và thực tiễn điều kiện Việt Nam hiện nay;
Trong đó đối với các đối tượng là di sản thiên nhiên đã được quy định trong pháp luật về lâm nghiệp, thủy sản, đa dạng sinh học và di sản văn hóa thì vẫn thực hiện theo các quy định này để tránh xáo trộn, chồng chéo.
Đồng thời, quy định việc điều tra, đánh giá, quản lý và BVMT di sản thiên nhiên để bảo vệ, phát huy giá trị bền vững di sản thiên nhiên ở nước ta.
Tạo lập chính sách phát triển các mô hình tăng trưởng kinh tế bền vững, thúc đẩy kinh tế tuần hoàn, phục hồi và phát triển nguồn vốn tự nhiên
Phát triển kinh tế bền vững thông qua việc thúc đẩy các mô hình kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế ít phát thải các-bon, đầu tư vào vốn tự nhiên đang là xu hướng chủ đạo trong phát triển kinh tế của các nước trên thế giới hiện nay, nhất là các nước đang phát triển.
Các mô hình này tập trung vào việc đầu tư sản xuất, tiêu dùng, xuất nhập khẩu, phân phối và kinh doanh các sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ hướng tới tối ưu hóa sử dụng nguyên liệu, vật liệu, năng lượng và chất thải, thân thiện với môi trường; đầu tư vào vốn tự nhiên.
Ở nước ta, nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về thúc đẩy tăng trưởng xanh, phát triển nền kinh tế tuần hoàn, hướng tới phát triển bền vững cũng đã được ban hành nhưng còn thiếu cơ sở pháp lý tạo nền tảng cho thúc đẩy các mô hình kinh tế này.
Vốn tự nhiên là các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bao gồm tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên rừng, nguồn lợi thủy sản, khoáng sản, nhiên liệu hóa thạch, các nguồn năng lượng tự nhiên và các dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên.
Cũng giống như các dạng vốn khác (vốn vật chất, vốn tài chính và vốn con người), vốn tự nhiên cũng có thể bị suy giảm và suy thoái do quá trình sản xuất và tiêu dùng.
Tuy nhiên, trong thời gian qua, với mô hình tăng trưởng trước đây, chúng ta mới chỉ tập trung tích lũy nhanh vốn vật chất, tài chính và con người mà thiếu đi sự quan tâm tới sự suy giảm, cạn kiệt của vốn tự nhiên, tạo ra những rủi ro và thách thức lớn cho thế hệ tương lai.
Để giải quyết vấn các vấn đề này, đồng thời tạo động lực phát triển bền vững và nâng cao chất lượng tăng trưởng và sự thịnh vượng quốc gia, Luật BVMT 2020 đã bổ sung một chương về các công cụ kinh tế và nguồn lực cho BVMT.
Trong đó, đã bổ sung các chính sách về phát triển ngành công nghiệp môi trường, dịch vụ môi trường, sản phẩm, dịch vụ thân thiện môi trường; ưu tiên thực hiện mua sắm xanh đối với dự án, nhiệm vụ sử dụng ngân sách nhà nước; thúc đẩy việc khai thác, sử dụng và phát triển vốn tự nhiên; đặc biệt là thúc đẩy kinh tế tuần hoàn.
Đồng thời, bổ sung chính sách về tín dụng xanh, trái phiếu xanh để huy động đa dạng các nguồn lực xã hội cho BVMT.
Câu hỏi thường gặp:
Xin hỏi những hành vi nào bị nghiêm cấm trong hoạt động bảo vệ môi trường?
Theo Điều 6 Luật Bảo vệ môi trường (BVMT), những hành vi bị nghiêm cấm bao gồm:
– Vận chuyển, chôn, lấp, đổ, thải, đốt chất thải rắn, chất thải nguy hại không đúng quy trình kỹ thuật, quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường.
– Xả nước thải, xả khí thải chưa được xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường ra môi trường.
– Phát tán, thải ra môi trường chất độc hại, vi rút độc hại có khả năng lây nhiễm cho con người, động vật, vi sinh vật chưa được kiểm định, xác súc vật chết do dịch bệnh và tác nhân độc hại khác đối với sức khỏe con người, sinh vật và tự nhiên.
– Gây tiếng ồn, độ rung vượt mức cho phép theo quy chuẩn kỹ thuật môi trường; xả thải khói, bụi, khí có mùi độc hại vào không khí.
– Thực hiện dự án đầu tư hoặc xả thải khi chưa đủ điều kiện theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường.
– Nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, quá cảnh chất thải từ nước ngoài dưới mọi hình thức.
– Nhập khẩu trái phép phương tiện, máy móc, thiết bị đã qua sử dụng để phá dỡ, tái chế.
– Không thực hiện công trình, biện pháp, hoạt động phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố môi trường theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường và quy định khác của pháp luật có liên quan.
– Che giấu, hành vi gây ô nhiễm môi trường, cản trở, làm sai lệch, thông tin, gian dối trong hoạt động bảo vệ môi trường dẫn đến hậu quả xấu đối với môi trường.
– Sản xuất, kinh doanh sản phẩm gây nguy hại cho sức khỏe con người, sinh vật và tự nhiên; sản xuất, sử dụng nguyên liệu, vật liệu xây dựng chứa yếu tố độc hại vượt mức cho phép theo quy chuẩn kỹ thuật môi trường.
– Sản xuất, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất và tiêu thụ chất làm suy giảm tầng ô-dôn theo quy định của điều ước quốc tế về các chất làm suy giảm tầng ô-dôn mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
– Phá hoại, xâm chiếm trái phép di sản thiên nhiên.
– Phá hoại, xâm chiếm công trình, thiết bị, phương tiện phục vụ hoạt động bảo vệ môi trường.
– Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm trái quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường.
Nội dung bảo vệ môi trường nước mặt bao gồm những nội dung gì?
Theo Điều 8 Luật Bảo vệ môi trường, Nội dung bảo vệ môi trường nước mặt bao gồm:
– Thống kê, đánh giá, giảm thiểu và xử lý nước thải xả vào môi trường nước mặt;
– Quan trắc, đánh giá chất lượng nước, trầm tích, môi trường thủy sinh của nguồn nước mặt và công khai thông tin phục vụ quản lý, khai thác và sử dụng nước mặt;
– Điều tra, đánh giá khả năng chịu tải của môi trường nước mặt; công bố các khu vực môi trường nước mặt không còn khả năng chịu tải; đánh giá hạn ngạch xả nước thải vào môi trường nước mặt;
– Xử lý ô nhiễm, cải tạo, phục hồi và cải thiện môi trường nước mặt bị ô nhiễm;
– Quan trắc, đánh giá chất lượng môi trường nước mặt, trầm tích sông liên quốc gia và chia sẻ thông tin phù hợp với quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường, pháp luật và thông lệ quốc tế.
Bộ Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm gì trong bảo vệ môi trường nước mặt?
Theo Điều 8 Luật Bảo vệ môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm sau đây:
– Hướng dẫn đánh giá khả năng chịu tải của môi trường nước mặt đối với sông, hồ; hướng dẫn đánh giá chất lượng môi trường nước mặt;
– Tổ chức thực hiện đánh giá chất lượng môi trường nước mặt, trầm tích, khả năng chịu tải của môi trường nước mặt đối với sông, hồ liên tỉnh; tổ chức kiểm kê, đánh giá nguồn thải, mức độ ô nhiễm và tổ chức xử lý ô nhiễm sông, hồ liên tỉnh; xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành kế hoạch quản lý chất lượng môi trường nước mặt đối với sông, hồ liên tỉnh có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội, bảo vệ môi trường;
– Kiểm tra việc thực hiện kế hoạch quản lý chất lượng môi trường nước mặt đối với sông, hồ liên tỉnh và giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu ô nhiễm môi trường nước, cải thiện chất lượng nước tại sông, hồ liên tỉnh.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm gì trong bảo vệ môi trường nước mặt?
Theo Điều 8 Luật Bảo vệ môi trường, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm sau đây:
– Xác định các sông, hồ nội tỉnh và nguồn nước mặt khác trên địa bàn có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế – xã hội, bảo vệ môi trường; xác định vùng bảo hộ vệ sinh khu vực lấy nước sinh hoạt, lập hành lang bảo vệ nguồn nước mặt trên địa bàn; xác định khu vực sinh thủy;
– Công khai thông tin các nguồn thải vào môi trường nước mặt trên địa bàn; thu thập thông tin, dữ liệu về hiện trạng môi trường nước mặt, nguồn thải và tổng lượng thải vào môi trường nước mặt thuộc sông, hồ liên tỉnh trên địa bàn quản lý theo hướng dẫn của Bộ Tài nguyên và Môi trường; chỉ đạo tổ chức đánh giá thiệt hại do ô nhiễm và xử lý ô nhiễm môi trường nước mặt trên địa bàn theo quy định;
– Tổ chức hoạt động phòng ngừa và kiểm soát các nguồn thải vào nguồn nước mặt trên địa bàn; thực hiện các giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu ô nhiễm môi trường nước mặt, cải thiện chất lượng nước mặt trên địa bàn theo kế hoạch quản lý chất lượng môi trường nước mặt;
– Tổ chức đánh giá chất lượng môi trường nước mặt, trầm tích, đánh giá khả năng chịu tải, hạn ngạch xả nước thải đối với nguồn nước mặt thuộc đối tượng quy định tại điểm a khoản này; công bố thông tin về môi trường nước mặt trên địa bàn không còn khả năng chịu tải;
– Ban hành, tổ chức thực hiện kế hoạch quản lý chất lượng môi trường nước mặt thuộc đối tượng quy định tại điểm a khoản này; tổ chức thực hiện kế hoạch quản lý chất lượng môi trường nước mặt đối với sông, hồ liên tỉnh trên địa bàn.
Kế hoạch quản lý chất lượng môi trường nước mặt phải có những nội dung chính nào?
Theo Điều 9 Luật Bảo vệ môi trường, Nội dung chính của kế hoạch quản lý chất lượng môi trường nước mặt bao gồm:
– Đánh giá, dự báo xu hướng thay đổi chất lượng môi trường nước mặt; mục tiêu, chỉ tiêu của kế hoạch; xác định vùng bảo hộ vệ sinh khu vực lấy nước sinh hoạt, hành lang bảo vệ nguồn nước mặt; xác định khu vực sinh thủy;
– Thực trạng phân bố các nguồn ô nhiễm điểm và nguồn ô nhiễm diện phát sinh chất ô nhiễm môi trường nước trong vùng tác động; nguy cơ ô nhiễm nước mặt xuyên biên giới;
– Loại và tổng lượng chất ô nhiễm thải vào môi trường nước mặt;
– Đánh giá khả năng chịu tải, phân vùng xả thải, hạn ngạch xả nước thải; xác định mục tiêu và lộ trình giảm xả thải vào môi trường nước mặt không còn khả năng chịu tải;
– Biện pháp phòng ngừa và giảm thiểu ô nhiễm môi trường nước mặt; giải pháp hợp tác, chia sẻ thông tin và quản lý ô nhiễm nước mặt xuyên biên giới;
– Giải pháp bảo vệ, cải thiện chất lượng nước mặt;
– Tổ chức thực hiện.
Thời kỳ lập Kế hoạch quản lý chất lượng môi trường nước mặt là bao lâu?
Theo Điều 9 Luật Bảo vệ môi trường, Kế hoạch quản lý chất lượng môi trường nước mặt được lập theo thời kỳ 05 năm.
Luật Bảo vệ môi trường quy định thế nào về bảo vệ môi trường nước dưới đất?
Theo Điều 10 Luật Bảo vệ môi trường, việc bảo vệ môi trường nước dưới đất được quy định như sau:
Các nguồn nước dưới đất phải được quan trắc, đánh giá để có biện pháp ứng phó kịp thời khi phát hiện có thông số môi trường vượt mức cho phép theo quy chuẩn kỹ thuật môi trường quốc gia hoặc có sự suy giảm mực nước theo quy định.
Hoạt động khoan thăm dò, khai thác nước dưới đất phải có biện pháp ngăn ngừa ô nhiễm môi trường nước dưới đất. Cơ sở có sử dụng hóa chất độc hại, chất phóng xạ phải có biện pháp bảo đảm không rò rỉ, phát tán hóa chất độc hại, chất phóng xạ vào nguồn nước dưới đất.
Cơ sở, kho, bãi chứa, lưu giữ nguyên liệu, nhiên liệu, hóa chất, khu vực lưu giữ, xử lý chất thải phải được xây dựng bảo đảm an toàn kỹ thuật, không gây ô nhiễm môi trường nước dưới đất.
Cơ quan, tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình và cá nhân gây ô nhiễm môi trường nước dưới đất có trách nhiệm xử lý ô nhiễm.
Việc bảo vệ môi trường nước dưới đất phải tuân thủ quy định của Luật này, pháp luật về tài nguyên nước và quy định khác của pháp luật có liên quan. Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định chi tiết việc bảo vệ môi trường nước dưới đất.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm bảo vệ môi trường nước dưới đất trên địa bàn theo quy định của pháp luật.
Luật Bảo vệ môi trường quy định thế nào về việc bảo vệ môi trường nước biển?
Theo Điều 11 Luật Bảo vệ môi trường, môi trường nước biển được bảo vệ như sau:
– Các nguồn thải vào môi trường nước biển phải được điều tra, đánh giá và có biện pháp ngăn ngừa, giảm thiểu, kiểm soát chặt chẽ, xử lý đáp ứng yêu cầu về bảo vệ môi trường.
– Vùng rủi ro ô nhiễm môi trường biển và hải đảo phải được đánh giá, xác định và công bố theo quy định của pháp luật về tài nguyên, môi trường biển và hải đảo.
– Hoạt động khai thác nguồn lợi từ biển và hải đảo, hoạt động kinh tế – xã hội khác phải phù hợp với quy hoạch và đáp ứng yêu cầu về bảo vệ môi trường, phát triển bền vững.
– Bảo vệ môi trường nước biển phải bảo đảm phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan; phối hợp giữa cơ quan nhà nước Việt Nam và cơ quan, tổ chức nước ngoài trong việc chia sẻ thông tin, đánh giá chất lượng môi trường nước biển và kiểm soát ô nhiễm môi trường biển xuyên biên giới.
– Việc bảo vệ môi trường nước biển phải tuân thủ quy định của Luật này, pháp luật về tài nguyên, môi trường biển và hải đảo, quy định khác của pháp luật có liên quan.
Thời hạn của Kế hoạch quốc gia về quản lý chất lượng môi trường không khí là bao lâu?
Theo Điều 13 Luật Bảo vệ môi trường, Thời hạn của Kế hoạch quốc gia về quản lý chất lượng môi trường không khí là 05 năm. Thời hạn của kế hoạch quản lý chất lượng môi trường không khí cấp tỉnh được xác định trên cơ sở phạm vi, mức độ ô nhiễm không khí, giải pháp quản lý, cải thiện và điều kiện, nguồn lực thực hiện của địa phương.
Nội dung chính của Kế hoạch quốc gia về quản lý chất lượng môi trường không khí bao gồm những nội dung gì?
Theo Điều 13 Luật Bảo vệ môi trường, Nội dung chính của Kế hoạch quốc gia về quản lý chất lượng môi trường không khí bao gồm:
– Đánh giá công tác quản lý, kiểm soát ô nhiễm không khí cấp quốc gia; nhận định các nguyên nhân chính gây ô nhiễm môi trường không khí;
– Mục tiêu tổng thể và mục tiêu cụ thể;
– Nhiệm vụ và giải pháp quản lý chất lượng môi trường không khí;
– Chương trình, dự án ưu tiên để thực hiện nhiệm vụ và giải pháp; xây dựng quy chế phối hợp, biện pháp quản lý chất lượng môi trường không khí hên vùng, liên tỉnh;
đ) Tổ chức thực hiện.
Trên đây là thông tin về những quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường. Nếu bạn cần hỗ trợ pháp lý hay bất kỳ thắc mắc có mong muốn được giải đáp nhanh chóng, vui lòng liên hệ với Luật Quốc Bảo qua số hotline/zalo: 076 338 7788. Chúng tôi sẽ giải đáp mọi thắc mắc cho quý khách miễn phí.