Thực trạng giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất ở Việt Nam là một trong những vấn đề thường gặp, vì đất đai là một loại tài sản đặc biệt, thuộc sở hữu của toàn dân, và được Nhà nước quản lý thay mặt cho chủ sở hữu. Nhà nước cấp quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai. Sử dụng đất là một vấn đề thường phát sinh trong tranh chấp trong thực tế.
Trong quá trình thực thi Luật Đất đai 2013, các quy định về giải quyết tranh chấp đất đai ít nhiều đã cho thấy những bất cập, cần phải được điều chỉnh cho phù hợp với nhu cầu sử dụng đất và tăng hiệu quả. quản lý đất đai của các cơ quan nhà nước. Để tìm hiểu thêm về các quy định cũng như Thông tư hướng dẫn giải quyết tranh chấp đất đai, mời các bạn cùng với Luật Quốc Bảo xem qua bài chia sẻ sau đây.
Mục lục
Thực trạng giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất hiện nay.
Các dạng tranh chấp đất đai.
Do các điều kiện lịch sử và địa lý cụ thể của Việt Nam, tranh chấp về đất đai cũng phát sinh từ nhiều nguyên nhân khác nhau và có nhiều loại tranh chấp khác nhau.
Trên thực tế, chúng ta thường thấy hai loại tranh chấp, đó là tranh chấp đất đai và tranh chấp liên quan đến đất đai. Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong mối quan hệ đất đai, nghĩa là, xác định ai có quyền sử dụng đất, như được định nghĩa tại Khoản 24, Điều 3 của Luật Đất Đai 2013.
Tranh chấp liên quan đến đất đai là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quan hệ dân sự liên quan đến đất đai như giao dịch, thừa kế, tài sản chung là quyền sử dụng đất. Lý do cho sự khác biệt như vậy là để xác định chính xác trật tự và thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai được điều chỉnh bởi Luật Đất đai 2013.
Tranh chấp đất đai thường có các hình thức sau:
(i) Tranh chấp về việc xác định ai có quyền sử dụng đất (bao gồm tranh chấp về việc đòi lại đất và tài sản gắn liền với đất của người thân trong các giai đoạn trước mà không thông qua nhiều thay đổi trong chính sách đất đã được phân bổ cho người khác)
(ii) Tranh chấp về ranh giới lô đất giữa những người sử dụng đất liền kề;
(iii) Tranh chấp về lối đi chung.
Trong số các loại tranh chấp đất đai, tranh chấp về việc xác định ai có quyền sử dụng đất là phổ biến, phức tạp và khó khăn.
Ảnh hưởng của hoạt động quản lý đất đai đối với việc giải quyết tranh chấp đất đai.
Từ thực tế giải quyết tranh chấp đất đai, có thể thấy rằng có nhiều nguyên nhân gây khó khăn trong quá trình giải quyết tranh chấp, một trong số đó phát sinh từ hoạt động quản lý đất đai của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Khắc phục những nguyên nhân này là điều bắt buộc để cải thiện hiệu quả giải quyết tranh chấp cũng như hiệu quả quản lý đất đai trong giai đoạn tới.
Những lý do có thể bao gồm:
Thứ nhất, do sự quản lý yếu kém kéo dài của cơ quan có thẩm quyền quản lý đất nhà nước trong việc lưu trữ và quản lý hồ sơ.
Một số cơ quan đã mất hồ sơ về các thửa đất, tài liệu lưu trữ không đầy đủ, làm gián đoạn thông tin về quá trình sử dụng đất và thông tin trong hồ sơ về các thửa đất bị thiếu và không chính xác (về kích thước, đo lường, diện tích, hình dạng của lô đất, tài sản trên đất) dẫn đến việc không cập nhật được di biến động của lô đất.
Tình trạng này xuất phát từ các quy định và thông lệ không hợp lý của các cơ quan quản lý đất đai như:
( i ) Hoàn thành chậm việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người dân và doanh nghiệp;
( ii ) Có lỗi trong việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
( iii ) Phân bổ đất không cụ thể trong lĩnh vực này, ranh giới không rõ ràng, chồng chéo trong phân bổ;
( iv ) Thành viên không thể được xác định trong quá trình chứng nhận hộ gia đình;
( v ) Yêu cầu đưa tên của cả hai vợ chồng vào đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của một cá nhân;
( vi ) Cung cấp thông tin cho các bên và cơ quan giải quyết tranh chấp một cách kịp thời và không chính xác, dẫn đến hồ sơ thửa đất không đáng tin cậy, cản trở rất nhiều việc giải quyết nhanh chóng và chính xác.
Thứ hai, bởi vì chính sách pháp lý về đất đai thay đổi liên tục và nhanh chóng trong một thời gian dài, nhưng mỗi lần không có quy định pháp lý xác định rõ ràng các quan hệ đất đai thực sự được hình thành.
Trong những thời điểm đó, tạo ra những điểm mờ nhạt trong quan hệ đất đai, dẫn đến sự thiếu thống nhất trong việc hiểu và áp dụng luật đất đai và các quy định trong các cơ quan quản lý đất đai trên cả nước.
Một số vấn đề bất cập trong giải quyết tranh chấp đất đai hiện nay
Về quy định hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai.
Khi tranh chấp đất đai xảy ra, hòa giải tranh chấp được liên kết với hai hình thức, bao gồm: hòa giải ngoài tòa án (tại Ủy ban Nhân dân cấp xã) và hòa giải trong tố tụng (hòa giải tại tòa án).
Theo quy định tại Điều 202 của Luật Đất đai 2013, Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai để tự lập hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải tại cơ sở.
Trong trường hợp tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không thể hòa giải, họ sẽ gửi đơn tới Ủy ban Nhân dân cấp xã của địa phương nơi có đất tranh chấp để hòa giải.
Do đó, với quy định này, khi có tranh chấp đất đai, bắt buộc phải trải qua giai đoạn hòa giải và khi các bên không thể tự hòa giải, họ phải nộp đơn yêu cầu Ủy ban Nhân dân cấp xã hòa giải.
Quy định này trên thực tế đang gặp khó khăn và bất cập tại các địa phương nơi không có đơn vị hành chính cấp xã (các đơn vị huyện đảo đặc biệt như huyện Côn Đảo của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; huyện Cồn Cỏ của tỉnh Quảng Trị; huyện Bạch Long Vĩ của thành phố Hải Phòng).
Tại các địa phương này, khi xảy ra tranh chấp đất đai, hòa giải viên sẽ gặp khó khăn trong việc xác định cơ quan hòa giải và cơ sở pháp lý để hòa giải, dẫn đến khó khăn trong việc gửi yêu cầu giải quyết.
Theo quy định, hòa giải cơ sở là một thủ tục bắt buộc trong việc giải quyết tranh chấp đất đai.
Kết quả của hòa giải phải được ghi lại bằng văn bản, có chữ ký của các bên và được chứng nhận là thành công hoặc không thành công của Ủy ban Nhân dân xã.
Trên thực tế, một tình huống xảy ra khi cơ quan này mời các bên tham gia hòa giải nhưng người được hỏi không đến (mặc dù đã được tống đạt giấy mời hợp lệ), dẫn đến sự bất lực của Ủy ban Nhân dân cấp xã để tiến hành tố tụng.
Nếu không thể hòa giải, biên bản hòa giải không thể được ký bởi bị đơn. Các ủy ban nhân dân cấp xã sẽ thực hiện biên bản không hòa giải. Trong trường hợp này, Luật đất đai hiện hành không đề cập đến loại tài liệu (biên bản) được coi là cơ sở để tòa án dựa trên cơ sở chấp nhận và giải quyết tranh chấp đất đai theo dân sự thủ tục. .
Đây là một vấn đề cần được hướng dẫn cụ thể trong thời gian tới để việc áp dụng luật đất đai được thực hiện thống nhất.
Ngoài ra, kết quả hòa giải thành công tại Ủy ban Nhân dân cấp xã không ràng buộc với các bên liên quan, vì vậy trên thực tế, sau khi hoàn thành hòa giải bởi các Ủy ban Nhân dân cấp xã, các bên nên thực hiện như thế nào, các bên liên quan nên làm gì để bảo vệ lợi ích của họ. Tranh chấp đất đai, đặc biệt là tranh chấp về quyền sử dụng đất, về cơ bản là tranh chấp dân sự.
Do đó, cần phải tôn trọng ý chí và thỏa thuận của các bên nếu thỏa thuận đó không vi phạm sự cấm đoán hoặc trái với đạo đức xã hội, đặc biệt là nội dung của thỏa thuận mà các bên đã đồng ý, biên soạn.
Hồ sơ hòa giải thành công của Ủy ban Nhân dân cấp xã. Những vấn đề này cần được xác định rõ ràng hơn trong Luật Đất đai.
Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định rằng tòa án, với tư cách là cơ quan xét xử, chịu trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi cho các bên liên quan để đạt được thỏa thuận về giải quyết các vụ án dân sự.
Việc tuân thủ các quy định của Bộ luật này, là một tổ chức bắt buộc trong tố tụng dân sự, tạo cơ hội cho các bên tranh chấp đàm phán và giải quyết với nhau mà không cần phải xét xử bởi tòa án.
Theo thống kê của Tòa án Nhân dân Tối cao và các cơ quan liên quan, hòa giải trong quá trình tố tụng đã cho thấy vai trò trong việc giải quyết xung đột về quyền và lợi ích của các bên liên quan. Đối với tranh chấp đất đai, hòa giải tại tòa án có ý nghĩa tích cực, giới hạn tình trạng của các bản án sai.
Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai
Theo quy định tại Điều 203 của Luật Đất đai 2013, sau khi hòa giải tại Ủy ban Nhân dân cấp xã, nhưng việc hòa giải không thành công hoặc không thể hòa giải được, nếu đất tranh chấp đã được cấp giấy chứng nhận hoặc có một trong các tài liệu sau:
Về quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 100 của Luật Đất đai 2013, tòa án sẽ chấp nhận giải quyết theo thủ tục dân sự. Nếu đất không có bất kỳ tài liệu nào ở trên, các bên tranh chấp có thể chọn giải quyết tranh chấp bởi tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp trên.
Việc cung cấp thẩm quyền để giải quyết tranh chấp cho tòa án khi loại đất tranh chấp mà các bên không có bất kỳ tài liệu nào đã được trao vượt quá chức năng và quyền tài phán của tòa án, và không cần đánh giá hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp.
Từ đó, tòa án chỉ có quyền xác định ai có quyền dân sự đang bị tranh chấp bởi người khác, bây giờ với các quy định trên, tòa án có nhiều quyền hơn để xác định ai có quyền sử dụng đất mà không có bất kỳ cơ sở pháp lý nào đã không được công nhận hợp pháp nhưng vốn thuộc thẩm quyền của các cơ quan quản lý nhà nước.
Theo các quy định của luật tố tụng dân sự, chỉ những tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của một chủ thể và hiện bị xâm phạm bởi một chủ thể khác hoặc bị tranh chấp, tòa án sẽ dựa trên các tài liệu và bằng chứng để xác định.
Trên thực tế, nếu tài sản thuộc về bất kỳ chủ thể nào, thì nó phải được công nhận cho chủ thể đó, buộc các bên sở hữu bất hợp pháp trả lại tài sản cho bên có nghĩa vụ.
Tòa án không có thẩm quyền xác định tài sản tranh chấp (đất) cho bất kỳ đối tượng nào khi đất không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép sử dụng đối tượng đó.
Việc giao thẩm quyền giải quyết cho tòa án trong trường hợp này không phù hợp với chức năng và nhiệm vụ của tòa án, trái với Hiến pháp, và mâu thuẫn với các quy định của Luật đất đai về tính đồng nhất của quản lý.
Về hoạt động phối hợp trong giải quyết tranh chấp đất đai.
Tòa án có chức năng xét xử chuyên nghiệp, với lợi thế là một đội ngũ nhân viên pháp lý có trình độ, nhưng hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp của tòa án phụ thuộc rất nhiều vào việc phối hợp xác minh và cung cấp thông tin từ cơ quan quản lý đất đai.
Thông qua thực hành xét xử, người ta đã chứng minh rằng sự phối hợp giữa tòa án và các cơ quan hành chính thường không thực sự hiệu quả.
Theo Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, các bên liên quan có nghĩa vụ cung cấp đủ bằng chứng cho tòa án, nhưng trên thực tế, điều khoản này phải đối mặt với nhiều thiếu sót.
Các cơ quan hành chính nhà nước là nơi lưu giữ các tài liệu và bằng chứng liên quan đến tranh chấp, nhưng đôi khi các quan chức của các cơ quan này thiếu sự hợp tác trong việc cung cấp các tài liệu và bằng chứng theo yêu cầu của các cơ quan hành chính nhà nước đương sự, tòa án.
Ngoài ra, sự phối hợp trong quá trình xác minh, thu thập, đánh giá bằng chứng và định giá quyền sử dụng đất giữa các cơ quan không thực sự gần gũi.
Có những trường hợp cơ quan quản lý đất đai cung cấp thiếu thông tin, chậm trễ trong việc cung cấp thông tin, gây khó khăn cho quá trình giải quyết tranh chấp.
Đó là những lý do chính cho sự chậm trễ trong việc giải quyết vụ án. Đây là một vấn đề cần được sửa đổi và bổ sung bởi Luật Đất đai để tăng cường hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp đất đai hiện nay.
Kiến nghị.
Từ tình hình giải quyết tranh chấp đất đai hiện nay, thông qua những bất cập và nội dung không phù hợp, Luật Đất đai 2013 cần được điều chỉnh thành một số nội dung liên quan đến các vấn đề sau:
Thứ nhất, sửa đổi và bổ sung các quy định liên quan đến hoạt động hòa giải của Ủy ban Nhân dân cấp xã theo các hướng sau:
(i) Bổ sung các quy định về cơ quan tiến hành hòa giải tranh chấp đất đai thay mặt cho Ủy ban Nhân dân cấp xã ở những khu vực không có đơn vị hành chính cấp xã;
(ii) Bổ sung các quy định cho các trường hợp Ủy ban Nhân dân của xã nơi có đất tranh chấp tổ chức một hội nghị hòa giải nhưng một trong hai bên liên quan vắng mặt mà không có một lý do chính đáng, Ủy ban Nhân dân cấp xã vẫn sẽ tiến hành hòa giải vắng mặt, lập hồ sơ hòa giải mà không có chữ ký của bên vắng mặt, và sau đó phục vụ tài liệu cho bên vắng mặt trong phiên hòa giải;
(iii) Trong trường hợp tranh chấp đất đai đã được hòa giải thành công bởi một tổ chức hòa giải, nhưng sau đó một trong các bên thay đổi quyết định và không chấp nhận kết quả hòa giải thành công, không cần phải tiếp tục các thủ tục hòa giải vì một bên tranh chấp không có thiện chí tuân theo thỏa thuận của các bên, nếu tiếp tục hòa giải sẽ chỉ kéo dài quá trình giải quyết vụ án.
Trong trường hợp này, các điều khoản nên được bổ sung trong vòng 30 ngày kể từ ngày thực hiện biên bản hòa giải thành công tại Ủy ban Nhân dân cấp xã, nếu các bên không có ý kiến, biên bản thỏa thuận sẽ được tự động công bố. chấp nhận, các bên phải thực hiện nội dung đã thỏa thuận.
Nếu trong vòng 30 ngày, một trong các bên có sự thay đổi trong kết quả hòa giải trước đó, Ủy ban Nhân dân cấp xã sẽ tham gia lại hòa giải và đây là hòa giải cuối cùng.
Trong trường hợp sau 30 ngày kể từ ngày lập hồ sơ hòa giải thành công, nếu một trong các bên tranh chấp có căn cứ để chứng minh rằng hồ sơ hòa giải đó vi phạm các thủ tục, người đó có quyền nộp đơn kiện yêu cầu tòa án hủy bỏ hồ sơ hòa giải thành công này và tòa án chỉ xem xét các khía cạnh thủ tục của hồ sơ hòa giải thành công, không xem xét nội dung của hòa giải mà các bên đã thỏa thuận.
Thứ hai, sửa đổi là bãi bỏ thẩm quyền của tòa án để giải quyết tranh chấp trong trường hợp đất tranh chấp không có bất kỳ tài liệu nào về quyền sử dụng đất.
Thứ ba, bổ sung các quy định về trách nhiệm của các cá nhân và tổ chức trong việc điều phối các hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai, cụ thể:
(i) Bổ sung các quy định về trách nhiệm của các cơ quan quản lý đất đai trong việc phối hợp giải quyết tranh chấp với tòa án và các cơ quan liên quan; trong đó quy định trách nhiệm và thời gian phối hợp trong việc xác minh và cung cấp thông tin của cơ quan quản lý đất đai theo yêu cầu;
(ii) Thêm các biện pháp trừng phạt cụ thể liên quan đến các hành vi không thực hiện, trì hoãn thực hiện và thực hiện ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan trong quá trình thực hiện lệnh và thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai;
(iii) Bổ sung các quy định về cơ chế xử lý trách nhiệm pháp lý đối với các trường hợp cá nhân, cơ quan và tổ chức đang giữ tài liệu và bằng chứng về đất tranh chấp của vụ án mà không hợp tác hoặc thất bại, cung cấp các tài liệu và bằng chứng của vụ án để đảm bảo giải quyết vụ việc nhanh chóng, kịp thời, chính xác và hợp pháp.
Một số câu hỏi và thực trạng giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất hiện nay.
Thủ tục khởi kiện giải quyết tranh chấp đất đai khi bị đơn đã qua đời?
Kính gửi công ty luật Quốc Bảo Tôi có một câu hỏi cần được trả lời: Tên của mẹ tôi có trong giấy chứng nhận sử dụng đất, bây giờ mẹ tôi vừa qua đời thì có người đã kiện Tòa án để tranh chấp mảnh đất này.
Họ nghĩ rằng đây là đất gia đình, vì vậy họ muốn chia nó ra. Vùng đất này là tên của ông tôi cho đến năm 1997 và để lại cho mẹ tôi (mẹ tôi có 3 đứa con, bố mẹ tôi ly dị trước khi ông tôi cho đất, nguyên đơn không phải là anh chị em của mẹ tôi.)
Hãy hỏi luật sư của bạn:
1 / Họ kiện như vậy Tòa có thụ lý không
2 / Ba của tôi có trách nhiệm gì trong vụ kiện này không?
Trân trọng cảm ơn!
Trả lời:
Theo các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự 2015, tại thời điểm hiện tại, theo Điều 26 của Bộ luật này, tranh chấp về thừa kế tài sản vẫn thuộc thẩm quyền của Tòa án. Tuy nhiên, cũng theo Điều 186 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, quyền khởi kiện như sau:
Các cơ quan, tổ chức và cá nhân có quyền tự khởi kiện hoặc thông qua các đại diện hợp pháp của họ ( sau đây gọi là nguyên đơn ) tại các tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích, tính hợp pháp của họ.”
Theo đó, tên của mẹ bạn nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và bây giờ mẹ bạn vừa qua đời, ai đó đã đệ đơn kiện lên Tòa án để tranh chấp mảnh đất này.
Họ nghĩ rằng đây là đất của gia đình, vì vậy họ yêu cầu được chia. Vùng đất này là tên của ông của bạn cho đến năm 1997 và để lại cho mẹ của bạn trong tên. Mẹ bạn có 3 đứa con, bố mẹ bạn đã ly dị trước khi ông của bạn cho đất, những người kiện không phải là anh chị em của mẹ bạn. Sau đó, bởi vì bạn đã không chỉ định ai là người khởi kiện ở đây? Vì vậy, chúng tôi sẽ tư vấn cho bạn như sau:
Trường hợp 1: Những người khởi kiện chỉ là thành viên gia đình muốn đòi lại vùng đất này vì đó là đất của gia đình, nhưng họ không có căn cứ và bằng chứng để chứng minh rằng mảnh đất trong tên của mẹ bạn là đất của dòng họ, Tòa án sẽ không chấp nhận trường hợp này và sẽ trả lại đơn kiện theo Điểm a, Khoản 1, Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, chi tiết tại Điều 2 của Nghị quyết 04/2017 / NQ-HDTP.
Quý khách tham khảo: Luật Quốc Bảo – Hotline/zalo: 0763387788
Dịch vụ thành lập công ty TpHCM | Thủ tục thành lập công ty TNHH |
Những người này không được quyền khởi kiện vì kiến nghị của họ không cần phải được xác minh, và thu thập bằng chứng là đủ để kết luận rằng không có vi phạm các quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị vi phạm hoặc cần bảo vệ.
Vào thời điểm này, ba bạn không cần phải chứng minh rằng vùng đất này thuộc về mẹ của bạn, nhưng ba bạn có quyền nộp hồ sơ tại cơ quan có thẩm quyền để thực hiện các thủ tục tuyên bố thừa kế theo quy định. .
Trường hợp 2: Những người khởi kiện là những người có căn cứ để chứng minh rằng vùng đất này thuộc về gia đình họ, cũng như họ có bằng chứng cho thấy quá trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho mẹ bạn là không hợp pháp theo quy định của pháp luật.
Sau đó, tất nhiên, những người này, mặc dù họ không phải là anh chị em của mẹ bạn và không phải là con đẻ hoặc con nuôi của mẹ bạn, họ có quyền đệ đơn kiện lên Tòa án để yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định tại khoản 9, Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
Tại thời điểm này, khi Tòa án chấp nhận kiến nghị của người đó, nếu ba anh bạn muốn giữ mảnh đất này của mẹ bạn để phân chia thừa kế theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015, sau đó bạn phải cung cấp bằng chứng để chứng minh rằng vùng đất này thuộc về mẹ của bạn và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo lệnh và thủ tục theo quy định của pháp luật.
Tư vấn tranh chấp đất đai và khởi kiện yêu cầu bồi thường
Xin chào luật sư có thể tư vấn cho gia đình tôi về những điều như sau:
Năm 1993, Ủy ban Nhân dân xã Nghĩa An đã cho gia đình tôi một mảnh hồ, với diện tích 3 sào 11. Nhưng kể từ đó, nhà tôi đã không được phép sử dụng đất mà chúng tôi đã ký hợp đồng trong một năm. Bởi vì có 2 hộ gia đình khác tiếp quản đất và sử dụng nó.
Năm 2007, họ đã bơm cát xuống hồ và trồng cây trên đó làm đất của họ. Mặc dù nhiều lần gia đình tôi có ý kiến, nhưng họ cho rằng không phải vậy. Vì vậy, tôi muốn hỏi rằng bây giờ tôi có thể kiện họ vì lý do ăn cắp đất và yêu cầu họ bồi thường? Mong được giúp đỡ. Tôi cảm ơn!
Trả lời:
Căn cứ Điều 3 Nghị định 102/2014/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai:
2. Chiếm đoạt đất có nghĩa là sử dụng đất mà không có sự cho phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc sử dụng đất được Nhà nước phân bổ hoặc cho thuê, nhưng thời hạn giao đất hoặc cho thuê hết hạn và việc sử dụng đất không được Nhà nước gia hạn, không trả lại đất hoặc sử dụng đất mà không thực hiện các thủ tục giao đất hoặc cho thuê đất theo luật đất đai.”
Do đó, theo thông tin của bạn, vào năm 1993, Ủy ban Nhân dân xã đã cho gia đình bạn một hợp đồng cho một mảnh hồ, với diện tích 3 sào 11.
Nhưng kể từ đó, gia đình của bạn đã không được sử dụng trong một năm. Bởi vì có hai hộ gia đình khác tiếp quản đất và sử dụng nó. Năm 2007, họ đã bơm cát xuống hồ và trồng cây trên đó làm đất của họ. Mặc dù nhiều lần gia đình bạn có ý kiến, nhưng họ cho rằng không phải vậy.
Hành vi này của hai hộ gia đình khác được coi là hành vi chiếm đất và có thể bị xử phạt hành chính theo khoản 1, Điều 10 của Nghị định 102/2014/ND-CP về xử phạt vi phạm hành chính trên đất liền:
Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng sẽ được áp dụng để xâm phạm hoặc chiếm đất nông nghiệp ngoài đất canh tác lúa, đất rừng đặc biệt, đất rừng bảo vệ hoặc đất rừng sản xuất. Ngoài ra, hai hộ gia đình này cũng phải chịu các biện pháp khắc phục:
– Buộc phục hồi tình trạng đất trước khi vi phạm;
– Buộc trả lại đất bị lấn chiếm, vì vi phạm.
Như vậy, trong trường hợp này, gia đình bạn trước tiên có quyền nộp đơn yêu cầu xử phạt hành chính đối với các vi phạm của hai hộ gia đình ở trên đối với Chủ tịch Ủy ban Nhân dân cấp xã nơi có đất, xử phạt và buộc hai hộ gia đình này trả lại đất cho gia đình bạn theo khoản 1, Điều 31 của Nghị định số. 102/2014 / ND-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai.
Trong trường hợp, bạn muốn yêu cầu hai hộ gia đình này bồi thường thiệt hại, bạn cần đưa ra bằng chứng để chứng minh bạn đã phải chịu bao nhiêu thiệt hại? Sau đó, bạn hoàn toàn có quyền nộp Khiếu nại lên Tòa án Nhân dân của quận nơi có đất để yêu cầu hai gia đình khác bồi thường cho gia đình bạn theo thủ tục dân sự.
Khởi kiện liên quan đến tranh chấp đất đai nhiều lần.
Xin chào luật sư, tôi mong nhận được lời khuyên của luật sư để giúp gia đình tôi giảm bớt lo lắng trong việc giải quyết tranh chấp đất đai với gia đình hàng xóm.
Bố mẹ tôi định cư ở mảnh đất đang sống từ năm 1984 cho đến bây giờ mà không có tranh chấp gì, năm 2013 theo chính sách mở rộng con đường của thành phố Yên Bái, nên ngôi nhà trên đất của bố mẹ tôi trong diện phải giải phóng mặt bằng. Sau khi nhận được hỗ trợ giải phóng mặt bằng, bố mẹ tôi đã xây một ngôi nhà ở vùng đất đối diện (cũng trên mảnh đất của bố mẹ tôi).
Kể từ đó, nhiều vấn đề đã nảy sinh về tranh chấp đất đai với các hộ gia đình liền kề với đất của bố mẹ tôi nhiều lần. Bị kiện tại tòa án nhân dân thành phố Yên Bái nói rằng bố mẹ tôi lấn chiếm đất trước mặt và phía sau nhà của họ, mỗi lần khởi kiện lại có số diện tích khác nhau.
Hơn thế nữa, những lần Khởi kiện trước: có lần thì họ rút đơn kiện, lần thì Tòa án gọi 2 lần nhưng họ vắng mặt. Yên ổn được một thời gian gần 1 năm nay gia đình họ lại Khởi kiện tiếp và bố mẹ tôi mới nhận được giấy triệu tập và thông báo thụ lý vụ án vào ngày 15/5/2018, trong nội dung Tóa án nhân dân thành phố có mời bố mẹ tôi ra Tóa án vào ngày 21/5/2018 tới đây.
Thưa luật sư. Bố mẹ tôi đã già, bố tôi 80 tuổi và mẹ tôi 72 tuổi, trong vài năm qua bố mẹ tôi đã bị ảnh hưởng rất nhiều bởi những vụ kiện như thế này, họ già nhưng không biết phải làm gì để ngăn chặn điều tương tự lặp lại. Năm 2011, nhóm khảo sát của Bộ Quốc phòng đã đi đo lại đất của các hộ gia đình trong khu vực bố mẹ tôi sinh sống, có một ranh giới đã ký giữa hai gia đình và không có tranh chấp.
Tất cả các bản vẽ và hồ sơ tại thời điểm đó là tại văn phòng địa chính của thành phố Yên Bái. Tôi hy vọng một luật sư tư vấn để có thể giúp gia đình tôi biết và hiểu rõ hơn về giải pháp giúp cha mẹ già của tôi không còn phải suy nghĩ về những điều như thế này?
Trân trọng cảm ơn.
Trả lời:
Theo thông tin bạn cung cấp, mảnh đất mà cha mẹ bạn hiện đang sống đang tranh chấp với hộ gia đình liền kề. Hộ gia đình này đã đưa ra nhiều kiến nghị lên Tòa án để yêu cầu Tòa án giải quyết nó, nhưng có vẻ như họ muốn cố tình kéo dài thời gian giải quyết hoặc không muốn giải quyết tranh chấp đất đai này sớm.
Cha mẹ của bạn là những người bị hàng xóm của bạn kiện vì hành vi xâm phạm đất của hàng xóm, vì vậy cha mẹ của bạn được xác định là bị cáo trong vụ án dân sự. Do đó, dựa trên khoản 4, Điều 72 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, quy định các quyền và nghĩa vụ của bị đơn:
“4. Đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn, nếu có liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn hoặc đề nghị đối trừ với nghĩa vụ của nguyên đơn. Đối với yêu cầu phản tố thì bị đơn có quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn quy định tại Điều 71 của Bộ luật này.”
Tại thời điểm này, để giải quyết vụ việc này càng nhanh càng tốt, gia đình bạn nên nộp đơn phản tố lên Tòa án, với mục đích phản đối ý kiến của gia đình hàng xóm, đồng thời, yêu cầu Tòa án xác nhận chấp nhận rằng mảnh đất mà cha mẹ bạn đang sử dụng là đất của cha mẹ bạn, dựa trên năm 2011, nhóm khảo sát của Bộ Quốc phòng đã đo lại đất của các hộ gia đình trong khu vực của bố mẹ tôi, ký biên giới giữa 2 gia đình và không có tranh chấp.
Hiện tại, toàn bộ hồ sơ bản vẽ vẫn được lưu trữ tại thời điểm đó trong địa chính của thành phố Yên Bái, cũng như gia đình bạn cũng cần cung cấp thêm bằng chứng để chứng minh mảnh đất đó thuộc về cha mẹ bạn, không phải cha mẹ bạn lấn chiếm.
Sau quyết định cuối cùng của Tòa án, nếu phán quyết hoặc Quyết định của Tòa án tuyên bố vùng đất này của gia đình bạn, gia đình bạn có quyền nộp yêu cầu giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho văn phòng đăng ký đất đai hoặc Sở Tài nguyên và Môi trường cấp huyện nơi có đất để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cha mẹ của bạn theo quy định của pháp luật.
Thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai
Nhà tôi và ngôi nhà bên cạnh có tranh chấp về quyền sử dụng con đường đi chung. Vào ngày 5 tháng 7, vợ tôi và tôi đã nộp đơn khiếu nại lên Ủy ban Nhân dân của xã, nhưng đơn của chúng tôi bị trả lại vì chúng tôi chưa tiến hành hòa giải ở cơ sở. Việc trả lại đơn trên có đúng không? Thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai được quy định như thế nào?
Trả lời:
Điều 202 của Luật Đất đai 2013 quy định về giải quyết tranh chấp đất đai như sau:
– Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự lập hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải cơ sở.
– Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không thể hòa giải sẽ gửi đơn tới Ủy ban Nhân dân cấp xã của địa phương nơi có đất tranh chấp để hòa giải.
– Chủ tịch Ủy ban Nhân dân cấp xã sẽ tổ chức hòa giải các tranh chấp đất đai tại các địa phương tương ứng của họ; trong quá trình thực hiện, phải phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác.
Thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban Nhân dân cấp xã sẽ được thực hiện trong vòng 45 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu bằng văn bản để giải quyết tranh chấp đất đai.
Việc hòa giải phải được lập thành văn bản, có chữ ký của các bên và được chứng nhận bởi Ủy ban Nhân dân của xã cho dù việc hòa giải thành công hay thất bại. Biên bản hòa giải sẽ được gửi cho các bên tranh chấp và được lưu giữ tại Ủy ban Nhân dân của xã nơi có đất tranh chấp.
– Trong trường hợp hòa giải thành công nhưng có sự thay đổi về hiện trạng ranh giới và người sử dụng đất, Ủy ban Nhân dân cấp xã sẽ gửi biên bản hòa giải cho Phòng Tài nguyên và Môi trường trong trường hợp tranh chấp đất đai giữa hai bên hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng với nhau; gửi đến Cục Tài nguyên và Môi trường cho các trường hợp khác.
Phòng Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ đệ trình lên Ủy ban Nhân dân cùng cấp quyết định công nhận thay đổi ranh giới lô đất và cấp giấy chứng nhận sử dụng đất mới quyền và quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất.
Một trong những nguyên tắc tổ chức và vận hành hòa giải cơ sở quy định tại khoản 1, Điều 4 của Luật hòa giải cơ sở là tôn trọng sự tự nguyện của các bên; không bắt buộc, áp đặt cho các bên trong hòa giải cơ sở.
Cũng tại khoản 1, Điều 6 của Luật Hòa giải cơ sở, các bên được khuyến khích giải quyết xung đột và tranh chấp của mình bằng phương thức hòa giải cơ sở và các hình thức hòa giải thích hợp khác.
Dựa trên các quy định trên của pháp luật, chỉ ra rằng các bên tranh chấp đất đai hoặc tranh chấp không bắt buộc phải chọn một phương thức hòa giải cơ sở để giải quyết xung đột và tranh chấp về đất đai trước khi đệ trình tranh chấp, khiếu nại với Ủy ban Nhân dân cấp xã.
Nhà nước chỉ khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự lập hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải cơ sở, trong khi hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban Nhân dân cấp xã là một thủ tục bắt buộc.
Do đó, việc Ủy ban Nhân dân của xã trả lại đơn đăng ký của bạn là không hợp pháp vì chưa tiến hành hòa giải ở cấp cơ sở.
Nếu có bất kỳ thắc mắc nào khác bạn có thể trực tiếp đến văn phòng của công ty chúng tôi Luật Quốc Bảo hoặc bạn có thể liên hệ với chúng tôi hotline zalo: 076 338 7788 để nhận được những tư vấn cụ thể và nhanh chóng nhất.