Khi tranh chấp đất đai xảy ra, hầu hết mọi người vẫn bối rối vì họ không biết cách giải quyết? Và hơn thế nữa, hầu hết những vụ tranh chấp đất đai gây ra những hậu quả khó lường kể cả về tài sản và tinh thần. Dưới đây là một số những vụ tranh chấp đất đai kết thúc bằng tình người mà hết thảy mọi người nên đề cao và nêu gương tinh thần bao dung và yêu thương nhau hơn. Cùng theo chân Luật Quốc Bảo trong bài viết sau.
Mục lục
- 1 Điều kiện để khởi kiện tranh chấp đất đai
- 2 Thủ tục và trình tự khởi kiện giải quyết tranh chấp đất đai
- 3 Hướng giải quyết khi tòa án kéo dài thời gian xử lý vụ án trái luật.
- 4 Những vụ tranh chấp đất đai kết thúc bằng tình người
- 5 Một số tình huống và câu hỏi liên quan đến những vụ tranh chấp đất đai kết thúc bằng tình người
Điều kiện để khởi kiện tranh chấp đất đai
Khi nộp đơn kiện tranh chấp đất đai, chúng ta cần chú ý đến các vấn đề sau:
- Đối với tranh chấp đất đai, thời hiệu khởi kiện theo quy định tại Điều 155 Bộ luật Dân sự 2015 không được áp dụng. Vì vậy, chúng ta không cần phải lo lắng quá nhiều khi tranh chấp đã diễn ra quá lâu và thời hiệu đã hết hạn.
- Các điều kiện về vấn đề kiện phải được đáp ứng theo quy định về quyền khởi kiện và năng lực hành vi tố tụng dân sự.
- Vụ án chưa được giải quyết bằng một bán án có hiệu lực pháp luật
- Vụ án thuộc thẩm quyền của tòa án
- Đối với các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất, việc hòa giải phải được tiến hành theo các quy định của Nghị quyết 04/2017 / NQ-HDTP.
Khi đáp ứng các điều kiện trên, chúng tôi có thể khởi kiện để yêu cầu tòa án giải quyết tranh chấp đất đai.
Thủ tục và trình tự khởi kiện giải quyết tranh chấp đất đai
Liên quan đến lệnh khởi kiện tranh chấp đất đai nói riêng cũng như tranh chấp dân sự nói chung, phải tuân theo lệnh quy định trong Bộ luật Dân sự 2015:
Nộp đơn kiện, chấp nhận vụ kiện
Nguyên đơn đưa ra một kiến nghị với các nội dung được quy định tại Điều 189 của CPC. Để trực tiếp nộp hoặc ủy quyền cho người khác nộp tại một tòa án có thẩm quyền.
Sau khi nhận được đơn kiện và bằng chứng kèm theo, và một khi Tòa án xác định rằng các hồ sơ đã hoàn thành theo quy định và nằm trong thẩm quyền xử lý, Tòa án sẽ thực hiện các thủ tục để chấp nhận. Tòa án thông báo cho nguyên đơn trả tiền tạm ứng phí tòa án.
Theo quy định tại Điều 195 của CPC, trong vòng 7 ngày kể từ ngày nhận được thông báo thanh toán tạm ứng chi phí tòa án, nguyên đơn phải trả trước chi phí tòa án tại Phòng Thi hành án dân sự và trả lại biên lai cho tòa án.
Tòa án sau đó tiến hành thụ lý vụ án theo quy định. Quá trình này diễn ra trong khoảng thời gian khoảng 15 ngày làm việc
Chuẩn bị cho phiên tòa xét xử vụ tranh chấp đất đai
Sau khi vụ án được chấp nhận, tòa án trước khi xét xử chuẩn bị cho phiên tòa. Trong giai đoạn này, Tòa án có thể thực hiện các thủ tục thu thập bằng chứng như:
- Thẩm định tại chỗ;
- Định giá tài sản;
- Đo lường và vẽ lại vùng đất tranh chấp…
Theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 203 Bộ luật Dân sự 2015: thời hạn giải quyết vụ tranh chấp đất đai là 4 tháng kể từ ngày chấp nhận vụ án.
Đối với các trường hợp có tính chất phức tạp hoặc do các sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan, chánh án của tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá 02 tháng.
Trong thời gian chuẩn bị xét xử, Tòa án có thể ra quyết định tạm thời đình chỉ việc giải quyết vụ án để thu thập tài liệu và bằng chứng.
Luật hiện hành không có quy định cụ thể về thời hạn tạm thời đình chỉ giải quyết vụ án để thực hiện các thủ tục tố tụng khác để phục vụ cho việc giải quyết vụ án.
Điều này gây ra hậu quả lâu dài, một số cá nhân đã tận dụng lợi thế đó để kiếm lợi nhuận, ảnh hưởng đến quá trình giải quyết, gây ra sự mất minh bạch và mất công bằng.
Đối với các trường hợp thông thường, được giải quyết trong thời hạn quy định của pháp luật mà không bị đình chỉ, Tòa án sẽ ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định tại Điều 220 của CPC.
Trong vòng 1 tháng sau khi quyết định đưa vụ án ra xét xử, tòa án phải mở một phiên tòa sơ thẩm về vụ tranh chấp đất đai theo quy định.
Tùy thuộc vào từng trường hợp với các mức độ phức tạp khác nhau, nó cũng ảnh hưởng đến thời gian giải quyết tranh chấp. Các quy định là như vậy, nhưng trên thực tế, có những trường hợp phải mất nhiều năm để giải quyết.
Giai đoạn xét xử vụ án sơ thẩm.
Trong thời gian xét xử, Thẩm phán có thể quyết định hoãn phiên tòa vì những lý do như:
- Thay đổi hội đồng xét xử, đại diện của các viện kiểm sát, chuyên gia;
- Sự vắng mặt của các bên liên quan sau khi được triệu tập lần thứ hai;
- Sự vắng mặt của các nhân chứng hoặc chuyên gia;
- Do bất khả kháng
Theo quy định tại Điều 233 Bộ luật Dân sự 2015, thời gian hoãn phiên tòa không quá 1 tháng và phiên tòa phải được xét xử lại.
Giai đoạn phúc thẩm
Thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày đương sự nhận bản án. Sau khi xem xét và chấp nhận kháng cáo, tòa án tiến hành chuẩn bị cho một phiên tòa phúc thẩm.
Thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm theo quy định tại ( Điều 286 của CPC ) là 2 tháng và có thể được gia hạn thêm hai tháng nữa.
Giống như tòa án sơ thẩm, tòa án có thể quyết định đưa vụ án ra xét xử hoặc đình chỉ giải quyết vụ án. Thời hạn thực hiện các thủ tục trên giống như thời gian sơ thẩm.
Khi tiến hành phiên tòa, tòa án có thể tiếp tục hoãn phiên tòa vì những lý do quy định tại Điều 296 của CPC, thời gian trì hoãn được xác định là giai đoạn sơ thẩm.
Như vậy, thời gian giải quyết vụ tranh chấp đất đai từ thời điểm nộp đơn kiện đến thời điểm có bản án sơ thẩm là khoảng 6 tháng đối với các trường hợp không bị Tòa án đình chỉ, với nhiều hoàn cảnh phức tạp theo quy định.
Đối với các trường hợp phức tạp, trải qua thủ tục phúc thẩm, có thể mất đến vài năm, điều này là khá bình thường.
Hướng giải quyết khi tòa án kéo dài thời gian xử lý vụ án trái luật.
Trong nhiều trường hợp, các yêu cầu của tòa án như sửa đổi và bổ sung kiến nghị, trả lại đơn khởi kiện hoặc các quyết định liên quan khác dẫn đến việc kéo dài vụ án không phù hợp với quy định của pháp luật. .
Trong những trường hợp như vậy, người khởi kiện có quyền kháng cáo quyết định của Tòa án.
Căn cứ vào các quy định tại Điều 194 của Bộ luật Dân sự 2015, nguyên đơn có quyền khiếu nại lên thẩm phán trưởng của tòa án đang xử lý vụ việc trong vòng 10 ngày kể từ ngày nhận được đơn kiện.
Trong trường hợp khiếu nại không được giải quyết, chúng tôi tiến hành khiếu nại thứ hai lên Chánh án tòa án cấp trên trực tiếp theo quy định.
Ngoài ra, trong trường hợp có sự vi phạm nghiêm trọng đối với các hoạt động tố tụng từ người tiến hành thủ tục gây cản trở việc giải quyết tranh chấp, chúng tôi có thể tố cáo hành vi đó.
Những vụ tranh chấp đất đai kết thúc bằng tình người
Nhường đất trồng cây gỗ lớn
Xã Trà Bùi và Trà Tây (huyện Trà Bồng) nằm ngay bên cạnh đỉnh Cà Đam ( ngọn núi cao nhất ở tỉnh Quảng Ngãi ). Mặc dù nằm ở quận Trà Bồng, nhưng con đường nhanh nhất để đến khu vực tranh chấp đất đai là phải đi qua phần đất của huyện Sơn Hà.
Nói điều này để thấy được sự cách trở và khoảng cách của những ngọn núi cao, và ở vùng núi sâu này, nhận thức của mọi người cũng mơ hồ như chính địa giới “lồi lõm”, dẫn đến tranh chấp đất đai kéo dài 4 năm.
Bà Hồ Thị Vy Na, Bí thư Đảng ủy xã Trà Tây (huyện Trà Bồng), chia sẻ: “Người dân thôn Vàng (xã Trà Tây) và thôn Quế (xã Trà Bùi) từng sống rất thân tình. Sau khi tranh chấp xảy ra, họ không còn nhìn mặt nhau nữa.
Trong nhiều năm, việc tìm thấy tiếng nói chung của người dân hai làng gặp nhiều khó khăn và có lúc phát sinh điểm nóng”, bà Na tâm tình.
Sự nhầm lẫn chỉ xảy ra ở vùng núi và rừng với diện tích đất tranh chấp do Nhà nước cấp cho người dân thôn Vàng nhưng người dân thôn Quế lại canh tác. Đây là một hình thức “chiếm canh” thường xảy ra ở các khu vực miền núi.
Ông Hồ Thành Vương (thôn Vàng) cho biết vì khoảng cách, hơn 3 ha đất của người dân thôn Vàng bị người dân thôn Quế chiếm trồng lúa lúc nào không hay.
Những người đồng bào Cor đã đi tìm một tiếng nói chung, nhưng sau đó không bên nào từ chối nhượng bộ bên kia. “Khi chưa uống với nhau ly rượu hòa giải, dân thôn Vàng thề sẽ không đội trời chung với người thôn Quế. Còn giờ chúng tôi thân tình như anh em rồi”, ông Vương cười hiền.
Để hóa thù thành bạn, Đặng Minh Thảo, bí thư Huyện ủy Trà Bồng, vẫn còn nhớ các cuộc họp “làm dịu những cái đầu nóng”.
Người Cor thương nhau tận ruột, nhưng khi ghét cũng tận da. Họ quyết tâm không ngồi trong cùng một cuộc họp.
Vào thời điểm này, vai trò của những người lớn tuổi trong làng và những người có uy tín trở nên vô cùng quan trọng. Khi người có uy tín gật đầu, cả làng sẽ thông.
Ông Hồ Văn Thính, trưởng thôn Vàng, cũng có phần đất bị người dân thôn Quế chiếm canh. Tất nhiên,ông rất bức xúc, nhưng khi nghe ông Thảo nói rằng có thôn nào thì cũng là người Cor, cũng đều mang họ Hồ. Vẫn có thể được giải quyết, tại sao phải nặng nề với nhau.
Ông Thính nhận ra tình yêu vĩ đại của con người và cần giữ gìn vẻ đẹp truyền thống của sự đoàn kết của đồng bào.
Ông Thính đã trút bầu tâm sự với ông Thảo, và khi ông Thảo đề nghị để những người có uy tín nhất của hai ngôi làng nói chuyện với nhau trước và nhận được lời mời, Ông Thính đã sẵn sàng “đàm phán” với người thôn Quế. “Cuộc nói chuyện đã thành công, hai thôn đồng ý ngồi xuống và nói chuyện và và chính quyền làm trọng tài. Tôi về phổ biến và bà con đồng thuận ngay”, ông Thính chia sẻ.
Sau lần ấy, những cuộc họp tiếp theo trở nên “dễ thở”. Mọi người thực sự muốn giữ rừng để tạo ra một nguồn nước. Và toàn bộ ngôi thôn Vàng đã sẵn sàng bàn giao toàn bộ khu vực với gần 13 ha cho chính phủ để trồng những cây lớn, để tạo nguồn nước cho cả hai ngôi làng.
Thật lạ, người dân ở chốn sơn cùng thủy tận này dù chữ nghĩa bập bẹ nhưng lại nắm rõ chủ trương chung của Nhà nước.
Người Cor là chủ nhân của núi rừng, từng được khai hoang và trồng cây keo để phát triển kinh tế, bây giờ họ muốn từ bỏ đất đai của mình để cho chính phủ để trồng những cây lớn.
“Bà con chỉ yêu cầu chính quyền phải làm cho họ hệ thống nước sạch thì sẽ giao lại sổ đỏ cho Nhà nước. Tôi hứa với bà con sẽ đáp ứng ngay nguyện vọng chính đáng ấy. Bà con đã chọn tình người, biến phần đất tranh chấp thành tài sản chung” – ông Thảo, bí thư Huyện ủy Trà Bồng, nói.
Vào những ngày cuối tháng Tư, ở vùng núi cao, mọi người mang những cuốn sách đỏ của họ lên mảnh đất của họ. Họ vui vẻ trao nó cho chính quyền.Người thôn Quế, thôn Vàng từ nay sẽ cùng sử dụng phần đất tranh chấp.
Trong tương lai gần, huyện Trà Bồng sẽ trồng trên phần đất ấy những cây lim, hương, cẩm. Rễ cây sẽ bám vào lòng đất giống như như tình người Cor hai thôn dành cho nhau.
Và khu rừng trăm năm tuổi đó sẽ được bàn giao cho những người từng là chủ đất để chăm sóc và bảo vệ.
Quý khách tham khảo: Luật Quốc Bảo – Hotline/zalo: 0763387788
Thành lập công ty | Thành lập hộ kinh doanh |
Nóc Ông Đến xuống núi
Tương tự, vùng đất thuộc một xã này và được canh tác bởi người dân của xã khác xảy ra xã Trà Giang và Trà Phú. Vụ việc kéo dài 14 năm với nhiều cuộc đối thoại không thành công. Người dân vã mồ hôi khai hoang ở xã Trà Phú kiên quyết không chịu trả đất cho xã Trà Giang.
Chính quyền địa phương biết rằng lấy lý ra xử sẽ thu hồi lại đất, nhưng tình người thì không thể. Dù sao, người dân ở xã Trà Phú đã đổ mồ hôi và đào đá và phá chồi cây dại trong nhiều năm để có được phần đất đó.
Một buổi tối cuối tháng 7 năm 2021, Các quan chức từ xã Trà Phú và huyện Trà Bồng phải vào tận thôn Phú Tài (xã Trà Phú) để gặp 35 hộ gia đình đang canh tác trên đất lâm nghiệp do UBND xã Trà Giang quản lý. Mong muốn của chính phủ là huy động các hộ gia đình ở Trà Phú trả lại đất cho xã Trà Giang.
Bởi vì trong nhiều năm, xã đã tổ chức nhiều cuộc họp để tìm giải pháp, nhưng các bên vẫn chưa tìm thấy tiếng nói chung. Ông Võ Tiến, thư ký của Đảng ủy xã Trạch Phủ, nhớ lại: “Người dân cho rằng toàn bộ diện tích 55,8ha ở khu vực do mình cực khổ khai hoang được. Việc vượt qua địa giới xã Trà Giang 14ha do họ không biết.
Nếu chính quyền muốn thu lại thì phải đền bù. Nhưng rồi khi nghe chúng tôi nói đến 14 hộ dân ở nóc Ông Đến (thôn 2, xã Trà Giang) đã sống biệt lập suốt 30 năm qua. Phần đất người dân trả lại sẽ tái định cư 14 hộ dân này thì bà con bắt đầu nhỏ giọng”.
Họ đều nhìn vào những ngọn núi cao, ai cũng biết nóc Ông Đến rất xa, người khỏe mạnh phải mất hai giờ đi bộ liên tục mới đến nơi.
Để xóa bỏ cách trở ấy, nhiều năm qua chính quyền phải băng rừng vận động sự chia sẻ dần xuất hiện trên khuôn mặt của những người tham dự.
Họ nghĩ về 14 hộ gia đình trên nóc Ông, tất cả đều nghèo và có một cuộc sống khó khăn. Y tế, giáo dục vẫn còn cách xa họ. Hiểu rõ lý do chính quyền vận động trả đất, người dân lập tức đồng tình. “Người dân chỉ chấp nhận giao lại đất cho 14 hộ dân xuống núi tái định cư.
Nếu không thực hiện thì họ sẽ đòi lại đất. Có thể nói tình người đã chiến thắng trong vụ tranh chấp này. Đó cũng là nút thắt được tháo bỏ”, ông Thế tâm tình.
Anh Võ Văn Anh (thôn Phú Tài, xã Trà Phú), là một trong những hộ gia đình tiên phong phân phối lại đất, nói rằng ông rất tiếc rằng vùng đất mà ông đã để lại để được khai hoang, nhưng nghĩ đến việc giao nó cho người thân của mình là những gì nên được thực hiện.
Dù sao, những người xuống núi cần phải có đất sản xuất để ổn định cuộc sống của họ. “Điều gì là đúng, tôi sẽ làm điều đó ngay lập tức. Tôi hy vọng rằng những người nhận được đất khai hoang của chúng tôi sẽ phát triển kinh tế, con cái họ có thể có được một nền giáo dục và một cuộc sống tốt hơn ở vùng núi cao.” Anh nói.
Đêm đó huy động hàng loạt, các cán bộ trực tiếp tham gia phiên đối thoại và vận động là một đêm không thể nào quên. Cán bộ cực nhưng lại đạt hiệu quả cao nhất, bởi tất cả người dân đều dự đông đủ, bởi vì tất cả những người tham dự với số lượng lớn.
Trong cuộc họp ban ngày, người này đi rẫy, người kia làm thuê, rất khó để tâm tình và truyền đạt đầy đủ cho tất cả bà con có quyền và nghĩa vụ liên quan.
Vì vậy, tranh chấp đã được giải quyết, nhưng hơn thế nữa, chính sự đồng thuận của người dân đã giúp chính phủ giải quyết vấn đề lớn hơn là tái định cư người dân trên nóc Ông. Sẽ không có thêm điểm nóng cho tranh chấp đất đai.
Tất cả dừng lại ở tình người và yêu thương. Rồi đây, một ngôi làng mới sẽ hình thành và bình yên giữa núi rừng…
Một số tình huống và câu hỏi liên quan đến những vụ tranh chấp đất đai kết thúc bằng tình người
Tình huống 1:
Gia đình cô Hoa có tranh chấp đất đai với gia đình hàng xóm. Sau nhiều lần hòa giải không thành công trong hòa giải cơ sở (có lập biên bản), bà Hòa đã gửi đơn kiến nghị lên Tòa án Nhân dân để giải quyết.
Tuy nhiên, hồ sơ kiện cáo của cô đã không được Tòa án chấp nhận và yêu cầu cô phải trải qua thủ tục hòa giải tại Ủy ban Nhân dân Xã.
Bà Hoa đề nghị cho biết, việc hòa giải tranh chấp đất đai tại Tổ hòa giải ở cơ sở và tại Ủy ban nhân dân xã khác nhau như thế nào? Tại sao Tòa án không chấp nhận biên bản hòa giải không thành của Tổ hòa giải?
Câu trả lời
Điều 202 và 203 của Luật Đất đai 2013 quy định như sau:
Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải cơ sở.
Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không thể hòa giải sẽ gửi đơn tới Ủy ban Nhân dân cấp xã của địa phương nơi có đất tranh chấp để hòa giải.
Chủ tịch Ủy ban Nhân dân cấp xã sẽ phải tổ chức hòa giải các tranh chấp đất đai tại các địa phương tương ứng của họ; trong quá trình thực hiện, phải phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác.
Thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban Nhân dân cấp xã sẽ được thực hiện trong vòng 45 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu bằng văn bản để giải quyết tranh chấp đất đai.
Nếu tranh chấp đất đai đã được hòa giải tại Ủy ban Nhân dân cấp xã nhưng không thành công, các bên liên quan có thể nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban Nhân dân có thẩm quyền hoặc khởi kiện tại Tòa án Nhân dân có thẩm quyền. quyền theo quy định của Luật đất đai.
Theo các quy định trên, bà Hòa cần phân biệt rõ ràng giữa hòa giải tranh chấp đất đai tại tổ hòa giải cơ sở và hòa giải tại Ủy ban Nhân dân cấp xã. Theo đó, hòa giải các tranh chấp đất đai tại tổ hòa giải cơ sở chỉ là “khuyến khích” về bản chất, có nghĩa là hòa giải có thể hoặc không thể được tiến hành tại tổ hòa giải cơ sở.
Hòa giải tại Ủy ban Nhân dân cấp xã là một thủ tục bắt buộc trong quá trình giải quyết tranh chấp đất đai, yêu cầu các bên liên quan thực hiện nghiêm túc, đảm bảo trật tự, thủ tục và giới hạn thời gian. Từ sự khác biệt trên, việc Tòa án từ chối chấp nhận đơn kiện tranh chấp đất đai của bà Hòa là có căn cứ.
Tình huống 2:
Hòa giải các tranh chấp, tư vấn pháp lý và đăng ký chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Ông Minh là chủ sở hữu quyền sử dụng đất 100m2. Gần đây, ông Minh vừa kết hôn với bà Hòa và đồng ý rằng mảnh đất này thuộc sở hữu chung của hai người. Tuy nhiên, sau gần 20 ngày, ông Minh vẫn không thực hiện các thủ tục để bà Hòa được nêu tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Vì vậy, hai người dần dần nảy sinh một cuộc xung đột. Ông Minh yêu cầu bà Phương – hòa giải viên của tổ hòa giải các xung đột và tư vấn nếu luật pháp có quy định về vấn đề này?
Câu trả lời
Khoản 2, 4, 6, Điều 95 của Luật Đất đai 2013 quy định như sau:
Đăng ký đất đai, nhà ở và các tài sản gắn liền với đất khác, bao gồm đăng ký ban đầu và đăng ký thay đổi, sẽ được thực hiện tại một tổ chức đăng ký đất đai thuộc cơ quan quản lý đất đai, dưới hình thức đăng ký trên Internet, giấy hoặc đăng ký điện tử và có hiệu lực pháp lý tương tự.
Thay đổi đăng ký được thực hiện cho trường hợp đã được cấp Giấy chứng nhận hoặc đăng ký nhưng có thay đổi. Trong đó, có sự chuyển giao quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và các tài sản gắn liền với đất khác của vợ chồng thành quyền sử dụng đất chung và quyền sở hữu tài sản chung của vợ chồng.
Trong trường hợp đăng ký thay đổi được đề cập ở trên, trong vòng 30 ngày kể từ ngày thay đổi, người sử dụng đất phải thực hiện các thủ tục đăng ký thay đổi.
Dựa trên các quy định trên, bà Phương hòa giải và tư vấn cho ông. Minh để thực hiện thủ tục đăng ký thay đổi quyền sử dụng đất của người chồng thành quyền sử dụng đất chung của vợ chồng.
Tình huống 3:
Nội dung của biên bản hòa giải không thành công có nêu rõ nguyên nhân tranh chấp theo quy định của pháp luật không?
Bà Ngô và ông Sinh đã có tranh chấp về quyền sử dụng đất. Tại cuộc họp hòa giải do Ủy ban Nhân dân xã tổ chức, hai bên đã không đạt được thỏa thuận.
Ủy ban Nhân dân xã đã lập biên bản hòa giải không thành công về tranh chấp quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, biên bản không chỉ định nguyên nhân của tranh chấp. Bà Ngô đề nghị rằng nội dung của biên bản mà không nêu rõ nguyên nhân tranh chấp là phù hợp với pháp luật?
Câu trả lời
Khoản 2, Điều 88 của Nghị định số của Chính phủ. 43/2014 / ND-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 nêu chi tiết việc thực hiện một số điều khoản của Luật Đất đai bao gồm các nội dung sau:
Thời gian và địa điểm hòa giải; người tham gia hòa giải; một bản tóm tắt nội dung của tranh chấp, cho thấy rõ nguồn gốc và thời gian sử dụng đất trong tranh chấp, nguyên nhân của tranh chấp ( theo kết quả xác minh và điều tra ); ý kiến của Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai; nội dung đã được các bên tranh chấp đồng ý hoặc không đồng ý.
Biên bản hòa giải phải có chữ ký của Chủ tịch Hội đồng, các bên tranh chấp có mặt tại cuộc họp hòa giải, các thành viên tham gia phiên hòa giải và phải có con dấu của Ủy ban Nhân dân cấp xã; đồng thời, nó phải được gửi ngay cho các bên tranh chấp và được giữ tại Ủy ban Nhân dân cấp xã.
Dựa trên các quy định trên, nội dung của biên bản hòa giải không đề cập đến nguyên nhân tranh chấp đất đai, không đầy đủ. Bà Ngô có quyền kiến nghị Ủy ban Nhân dân Xã để thêm nội dung này vào biên bản trước khi ký.
Tình huống 4:
Nhà hàng xóm lấn chiếm nhà tôi và xây một ngôi nhà trên vùng đất bị lấn chiếm. Gia đình tôi đã yêu cầu cơ quan can thiệp, nhưng chú của người hàng xóm đang làm việc tại văn phòng địa chính, đã đo đất không chính xác và cho rằng nhà tôi đang vu khống cho hàng xóm.
Vì điều đó không đúng sự thật, mẹ tôi đã không ký biên bản, hy vọng có luật sư để tư vấn cho tôi về cách giải quyết và hình thức xử phạt trong trường hợp này như thế nào?
Câu trả lời
Điều 203 của Luật Đất đai 2013 quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai như sau:
“Tranh chấp đất đai đã được hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã mà không thành thì được giải quyết như sau:
1. Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng nhận hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Tòa án nhân dân giải quyết;
2. Tranh chấp đất đai mà đương sự không có Giấy chứng nhận hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này thì đương sự chỉ được lựa chọn một trong hai hình thức giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định sau đây:
a) Nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều này;
b) Khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự;”
Vì vậy, đất của bạn có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đã có đơn yêu cầu lên Ủy ban Nhân dân xã để hòa giải nhưng không thành công.
Nếu có căn cứ, Ủy ban Nhân dân Xã hòa giải không đúng hoặc không tuân thủ các quy định của pháp luật. Gia đình bạn có thể gửi yêu cầu giải quyết tranh chấp trực tiếp lên Tòa án Nhân dân của huyện nơi có đất.
Trong trường hợp này, dù không có đủ cơ sở để chứng minh địa chính đã đo sai diện tích đất của nhà bạn, nhưng bạn có quyền không đồng ý với biên bản hòa giải của Ủy ban Nhân dân Xã, khi bạn gửi đơn lên Tòa án, bạn có thể yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành đo đạc lại tại chỗ để giải quyết tranh chấp.
Tình huống 5:
Kính gửi luật sư Luật Quốc Bảo. Luật sư vui lòng tư vấn giúp đỡ về các vấn đề sau: bà con chúng tôi đã mua một số lô đất từ ông A.
Đây là đất nông nghiệp, có giấy tờ viết tay, có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 500m đứng tên của vợ của ông A hoặc ông A (tùy theo sổ).
Chúng tôi đã mua mảnh đất này từ năm 2009 (có người mua vào năm 2011). Mỗi nhà rộng khoảng 80-100m2. Người ta đã xây dựng nhà cửa và sống đến tận bây giờ. Có hộ khẩu đầy đủ và đã thực hiện nghiêm chỉnh mọi quyền công dân tại địa phương.
Hiện tại, Tòa án đã triệu tập và yêu cầu mọi người đến làm việc vì ông A đã mang giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này để thế chấp ngân hàng.
Có thể có quyền sử dụng đất được thế chấp trước thời gian ông A bán đất, cũng có quyền sử dụng đất mà ông A đã thế chấp rồi mà vẫn bán cho người khác (do có nhiều hộ gia đình mua đất vào nhiều thời điểm khác nhau).
Quá hạn, ông A chưa thanh toán, nên ngân hàng gửi đơn khởi kiện lên Tòa án. Người dân chúng ta bây giờ không biết phải làm gì? Nhờ luật sư cho chúng tôi lời khuyên để giữ lại nhà và đất để tiếp tục sinh sống?
Cảm ơn luật sư rất nhiều.
Câu trả lời
Theo thông tin bạn cung cấp, có nhiều người cùng nhận được chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp, giấy tờ viết tay với ông A. Việc chuyển nhượng này đã được thực hiện sau ngày 1 tháng 7 năm 2004, trước khi Luật Đất đai 2013 có hiệu lực.
Vì vậy, dựa trên Luật Đất đai có hiệu lực vào ngày 1 tháng 7 năm 2004 và Luật Đất đai 2013 có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2014, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất bắt buộc phải được công chứng và chứng thực theo quy định của pháp luật.
Trong trường hợp này, nhiều người mởi chỉ ký hợp đồng chuyển nhượng viết tay với ông A mà không có công chứng hay xác thực, nhưng đã xây nhà và sống trên đất đó cho đến hôm nay, đồng thời cũng có sổ hộ khẩu, thực hiện đầy đủ và nghiêm chỉnh nghĩa vụ của công dân tại địa phương.
Do đó, dựa trên Điều 129 của Bộ luật Dân sự 2015 quy định về các giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ các quy định về hình thức:
“Giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức thì vô hiệu, trừ trường hợp sau đây:
1. Giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó;
2. Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực.”
Mặc dù, tại thời điểm ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, các bên đã không tuân thủ các quy định về hình thức hợp đồng, đó là phải lập thành văn bản, có công chứng hoặc chứng thực, nhưng nếu các hộ gia đình ở đây có bằng chứng để chứng minh rằng đã hoàn tất thủ tục thanh toán cho ông A, các bên có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng này có hiệu lực.
Đất mua lúc này không còn là của ông A. Vì vậy ngân hàng không có quyền thanh lý hoặc bán đấu giá lô đất này để thực hiện nghĩa vụ trả nợ ngân hàng của ông A.
Do đó, trong trường hợp này, các hộ gia đình đã chuyển nhượng đất với ông A có quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích hợp pháp của họ, tránh trường hợp bị ngân hàng thanh lý hoặc ít nhất là yêu cầu Tòa án buộc ông A phải bồi thường thiệt hại cho những người đã thực hiện chuyển nhượng đất từ ông A.
Trên đây là nội dung tư vấn từ Luật Quốc Bảo về vấn về những vụ tranh chấp đất đai kết thúc bằng tình người. Nếu bạn vẫn còn thắc mắc, không rõ ràng hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chuyên gia tư vấn của Luật Quốc Bảo qua số điện thoại hotline/zalo: 076 338 7788 để nhận được câu trả lời và tư vấn một cách nhanh chóng và uy tín.