Bản án tranh chấp hợp đồng đặt cọc

Bản án tranh chấp hợp đồng đặt cọc? Hiện nay, để đảm bảo việc thực hiện hợp đồng như mong muốn của các bên, thường có xu hướng kí kết hợp đồng đặt cọc. Bộ luật Dân sự năm 2015 đã có quy định rõ về việc đặt cọc và Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao cũng đã ban hành Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP để hướng dẫn giải quyết tranh chấp hợp đồng dân sự có liên quan đến đặt cọc.

Tuy nhiên, trong thực tế, việc giải quyết các tranh chấp này không phải là chuyện đơn giản. Sau đây là tổng hợp một số bản án về tranh chấp hợp đồng đặt cọc mà Luật Quốc Bảo chúng tôi cung cấp , mời mọi người cùng xem nhé!

Ngoài ra, Luật Quốc Bảo chuyên tư vấn và giải quyết các vấn đề pháp lý: Tư vấn thành lập viện đào tạo tư nhânthủ tục thành lập công ty, Thành lập trung tâm ngoại ngữthành lập trung tâm tư vấn du họcthành lập nhóm trẻxin giấy phép vệ sinh an toàn thực phẩmxin visagiấy phép lao động cho người nước ngoài: hãy liên hệ với Luật Quốc Bảo hotline/Zalo: 0763387788 để được giải đáp nhanh chóng nhất nhé!

Tổng hợp Bản án tranh chấp hợp đồng đặt cọc

Bản án số: 1043/2023/DS-PT ngày 06/11/2023

  • Tên bản án: Tranh chấp hợp đồng đặt cọc mua bán nhà (14.11.2023)
  • Quan hệ pháp luật:Tranh chấp hợp đồng đặt cọc
  • Cấp xét xBản án tranh chấp hợp đồng đặt cọcử:Phúc thẩm
  • Loại vụ/việc:Dân sự
  • Tòa án xét xử:TAND TP. Hồ Chí Minh
  • Áp dụng án lệ: Không
  • Đính chính: 0

Thông tin về vụ/việc: Nguyên đơn: Ông Trương Văn T Bị đơn: Công ty Cổ phần địa ốc T Nguyên đơn ông Trương Văn T cùng Công ty cổ phần địa ốc T (gọi tắt là Công ty T ) ký Hợp đồng đặt cọc số A1714/HĐĐC-TTLAND với nội dung:

Công ty T nhận tiền đặt cọc và nguyên đơn đặt cọc để đảm bảo cho việc ký hợp đồng mua bán bất động sản là căn hộ có ký hiệu A17.14 của tầng 17 Tòa nhà A thuộc Dự án L, tọa lạc tại số 4 đường N, Phường 8, Quận 4, Tp. Hồ Chí Minh.

Tính đến thời điểm hiện tại đã hơn 05 năm kể từ ngày ký hợp đồng đặt cọc, phía Công ty T vẫn không thể thực hiện việc ký Hợp đồng mua bán bất động sản là căn hộ có ký hiệu A17.14 của tầng 17 tòa A thuộc Dự án L với nguyên đơn như nội dung thỏa thuận trong Hợp đồng đặt cọc. Theo thỏa thuận thống nhất thì hợp đồng mua bán bất động sản chậm nhất là quý 2 năm 2018 (Tháng 6/2018) phải được ký kết.

Tuy nhiên, Công ty T đã không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết, Công ty đã nhiều lần đơn phương thay đổi thời điểm ký kết hợp đồng cũng như thời điểm bàn giao căn hộ. Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Công ty T thanh toán cho nguyên đơn số tiền là 2.452.026.000 đồng.

Do có sự thay đổi trong chính sách đất đai của cơ quan nhà nước ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện dự án của Chủ đầu tư khiến Công ty T phải gia hạn thời gian ký kết Hợp đồng mua bán và thời gian bàn giao bất động sản với khách hàng.

Đây là sự kiện bất khả kháng mà Công ty T hoàn toàn không thể lường trước được tại thời điểm ký kết hợp đồng đặt cọc với nguyên đơn. Và bị đơn khẳng định các văn bản liên quan phát sinh từ hợp đồng trên là vô hiệu, do vậy hậu quả vô hiệu đề nghị giải quyết theo quy định pháp luật.

Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn; Sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 70/2023/DS-ST ngày 19-6-2023 của Tòa án nhân dân Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bản án tranh chấp hợp đồng đặt cọc mua đất
Bản án tranh chấp hợp đồng đặt cọc mua đất

Bản án số: 21/2023/DS – PT ngày 20/02/2023

  • Tên bản án: Tranh chấp hợp đồng đặt cọc giữa nguyên đơn: Ông Lê Văn T với bị đơn: Bà Bùi Thị V (02.03.2023)
  • Quan hệ pháp luật:Tranh chấp hợp đồng đặt cọc
  • Cấp xét xử:Phúc thẩm
  • Loại vụ/việc:Dân sự
  • Tòa án xét xử: TAND TP Đà Nẵng
  • Áp dụng án lệ: Không
  • Đính chính: 0
  • Thông tin về vụ/việc: Vào ngày 19/4/2021, ông T có đặt cọc số tiền 300.000.000đ để mua lô đất của Bà Bùi Thị V. Bà V không thực hiện được hợp đồng chuyển nhượng nên ông T yêu cầu Tòa án buộc Bà Bùi Thị V trả cho ông số tiền đặt cọc là 300.000.000đồng và tiền phạt cọc là 300.000.000đồng. Tổng cộng là 600.000.000đồng.
  • Bà V đồng ý trả lại tiền cọc 300.000.000đ và không đồng ý phạt cọc. Bản án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn T, buộc Bà Bùi Thị V phải trả cho Ông Lê Văn T số tiền đặt cọc là 300.000.000 đồng và tiền phạt cọc là 300.000.000 đồng, tổng cộng là 600.000.000 đồng. Bà Bùi Thị V kháng cáo toàn bộ bản án. Tại cấp phúc thẩm, bà Bùi Thị V đã trả cho ông Lê Văn T số tiền đặt cọc 300.000.000đ.
  • Đối với tiền phạt cọc 300.000.000 đồng, các bên đương sự thống nhất thỏa thuận: Bà V có trách nhiệm trả cho Ông T 150.000.000đ tiền phạt cọc (đã giao nhận xong tại phiên tòa bằng hình thức chuyển khoản). Án phí dân sự sơ thẩm mỗi bên chịu một nửa.
  • Do đó cấp phúc thẩm sửa Bản án dân sự sơ thẩm, công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.

Bản án về tranh chấp hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 09/2022/DS-PT

– Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận

– Trích dẫn nội dung:

“Đặt cọc là để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng, pháp luật không cấm người không phải là chủ sở hữu tài sản ký hợp đồng đặt cọc. Mặt khác, trong trường hợp này, thực tế ông Ư đã nhận chuyển nhượng đất từ vợ chồng ông T, bà L và sau khi ký hợp đồng đặt cọc, mặc dù đất chưa sang tên cho ông Ư nhưng ông Ư vẫn bảo đảm việc giao kết hợp đồng, cụ thể ông A đã nhận chuyển nhượng và đã được đăng ký biến động sang tên thửa đất có diện tích 1.186m2 vào ngày 20/11/2019.

Đối với thửa đất có diện tích 600m2 chưa được cấp giấy chứng nhận, theo hợp đồng đặt cọc thì hai bên thỏa thuận khi bên ông Ư đã hoàn tất thủ tục pháp lý (cấp sổ) cho ông A thì ông A chuyển tiếp phần còn lại là 1.000.000.000 đồng cho ông Ư.

Xét thỏa thuận này không trái pháp luật và đến thời điểm nguyên đơn nộp đơn khởi kiện bị đơn thì nguyên đơn cũng chưa vi phạm thỏa thuận này. Mặt khác, tại phiên tòa, ông A thừa nhận việc ký hợp đồng đặt cọc với ông Ư là hoàn toàn tự nguyện, khi ký hợp đồng đặt cọc, ông A đã biết tình trạng pháp lý của các thửa đất.

Do đó, việc ông A cho rằng ông Ư không phải là người chủ sử dụng hợp pháp đối với các thửa đất nên không được quyền ký hợp đồng đặt cọc và đề nghị tuyên bố hợp đồng đặt cọc vô hiệu, Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông A là hoàn toàn có căn cứ.”

Bản án tranh chấp hợp đồng đặt cọc mua đất
Bản án tranh chấp hợp đồng đặt cọc mua đất

Bản án về tranh chấp hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 131/2021/DS-PT

– Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương

– Trích dẫn nội dung:

“Bà T cho rằng khi thỏa thuận chuyển nhượng thì hai bên thương lượng giá trị chuyển nhượng được tính theo diện tích đo đạc thực tế nhưng khi tiến hành đo đạc thực tế diện tích đất phải trừ diện tích hành lang nên bà T yêu cầu ông T giảm giá tiền nhưng ông T không đồng ý.

Đồng thời, khi tiến hành đo đạc thì bà T mới phát hiện người đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với hai phần đất chuyển nhượng là bà Phạm Thị Thanh L là con gái ruột của ông T chứ không phải ông T.’

Bản án 17/2021/DS-ST ngày 19/03/2021 về hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất

– Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân huyện T

Trích dẫn nội dung:

“Ông P và bà T có văn bản đề nghị Tòa án hoãn phiên tòa, tạm đình chỉ xét xử và đình chỉ vụ án với lý do ông P bị bệnh tâm thần nhưng ông M, bà M ép ông P ký hợp đồng đặt cọc bán nhà và đất với số tiền 150.000.000 đồng đối với thửa đất 1131 tờ bản đồ số 3, diện tích 90.3m2 loại đất ONT tọa lạc tại Ấp 7, xã N, huyện T, tỉnh L là trái qui định của pháp luật, thực tế ông P chỉ mượn tiền của ông M, bà M với số tiền là 50.000.000 đồng.

Ngày 13/01/2021 Tòa án đã thông báo cho ông Võ Tấn P và bà Lê Thị T cung cấp tài liệu chứng minh giao dịch giữa ông M, bà M và ông P là giao dịch vay mượn tiền và quyết định của Tòa án tuyên ông P là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, mất năng lực hành vi dân sự hoặc người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi nhưng hết thời hạn ông P và bà T không cung cấp”

Bản án 285/2020/DS-PT ngày 06/11/2020 về tranh chấp hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất

– Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương

– Trích dẫn nội dung:

“Ngày 8/8/2018, bà L từ chối giao kết, thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với ông C, bà L khai có điện thoại yêu cầu ông C ra công chứng thực hiện việc ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhưng ông C nói trong điện thoại là không tiếp tục mua đất nữa, ngoài ra bà L không cung cấp được chứng cứ nào khác, ông C không thừa nhận.

Do bà L từ chối giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nên ngày 11/07/2018, ông C làm đơn khởi kiện bà L ra Tòa án yêu cầu bên nhận đặt cọc bà L đã từ chối giao kết, thực hiện hợp đồng thì phải trả cho bên đặt cọc số tiền 100.000.000 đồng.

Bản án 1007/2019/DS-PT ngày 11/11/2019 về tranh chấp hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất

– Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương

– Trích dẫn nội dung:

Do hai bên đều biết phần đất chuyển nhượng là đất nông nghiệp nhưng vẫn tiến hành chuyển nhượng nên hai bên có lỗi ngang nhau trong việc thực hiện giao dịch đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất nói trên khi giao dịch bị vô hiệu, không bên nào có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bên nào, mà cần buộc hai bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận.

Tòa án cấp sơ thẩm không xác định hợp đồng đặt cọc nói trên bị vô hiệu, để làm căn cứ hủy bỏ các hợp đồng đặt cọc và giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu là chưa chính xác.

Dịch vụ pháp lý tư vấn giải quyết tranh chấp – Luật Quốc Bảo

Luật Quốc Bảo cung cấp dịch vụ pháp lý tư vấn và giải quyết tranh chấp với các đặc điểm như sau:

Kinh nghiệm và chuyên môn: Luật Quốc Bảo có đội ngũ luật sư giàu kinh nghiệm, am hiểu sâu sắc về pháp luật và các quy trình giải quyết tranh chấp. Họ có khả năng đánh giá toàn diện về các vấn đề pháp lý liên quan đến tranh chấp hợp đồng và đưa ra các phương án giải quyết hiệu quả.

Dịch vụ tư vấn toàn diện: Luật Quốc Bảo không chỉ tư vấn về phương án giải quyết tranh chấp như hòa giải, đàm phán, hay khởi kiện, mà còn hỗ trợ thu thập và chuẩn bị chứng cứ cần thiết.

Đại diện tại tòa án và trọng tài: Nếu cần thiết, Luật Quốc Bảo có khả năng đại diện và bảo vệ quyền lợi của khách hàng tại các phiên tòa án hoặc trọng tài thương mại, đảm bảo sự công bằng và khách quan trong quá trình giải quyết tranh chấp.

Cam kết chất lượng dịch vụ: Luật Quốc Bảo cam kết mang đến kết quả bền vững và giữ vững nguyên tắc không làm điều sai trái, không hối lộ hay can thiệp vào quy trình pháp lý.

Tận tâm và chuyên nghiệp: Luật Quốc Bảo luôn đặt sự tận tâm và sự chuyên nghiệp lên hàng đầu, chăm sóc và giải thích chi tiết, liên tục trong suốt quá trình làm việc với khách hàng.

Với những đặc điểm nổi bật này, Luật Quốc Bảo là đối tác tin cậy trong việc giải quyết các vấn đề pháp lý liên quan đến tranh chấp hợp đồng, đảm bảo mang lại sự hài lòng và giá trị lâu dài cho khách hàng.

Đánh giá bài viết

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.